4 thg 8, 2014

A Mạch tòng quân - Chương 97-98

DẠ YẾN
Trung tuần tháng năm, tiết trời đã vào hạ, cuối cùng quân Giang Bắc cũng đã đến ngoại thành Thái Hưng. Bắc Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa, nên đã cho Chu Chí Nhẫn lãnh binh lui về phía bắc một trăm dặm, để quân Giang Bắc vào thành Thái Hưng. Nhưng Vệ Hưng lại chưa vội vàng đưa đại quân vào thành, mà làm theo đề nghị của A Mạch, hạ lệnh cho đại quân đóng quân ở phía tây thành Thái Hưng, đồng thời lưu những tướng lĩnh tâm phúc đóng ở trong doanh trại, chỉ dẫn theo vài vị tướng lĩnh cao cấp cùng vài thuộc hạ văn chức tiến vào Thái Hưng.

Thành Thái Hưng, là thành lớn nhất vùng Giang Bắc của Nam Hạ, từ năm Thịnh Nguyên thứ hai đến nay đã bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm! Trong thành vốn dự trữ sung túc nên không hề xuất hiện thảm kịch người ăn thịt người, nhưng dân chúng trong thành cũng đã sớm quen với việc nhìn cửa thành đóng chặt mà lo lắng đề phòng từng ngày. Nay cửa thành đột nhiên được mở ra, lập tức mọi người đều có chút ngây ngốc, đợi đến khi thấy đoàn quân tiến vào là quân Nam Hạ, dân chúng tưởng rằng chiến trận bấy lâu nay cuối cùng đã giành được thắng lợi, vui sướng không kìm nén được mà hoan hô ầm lên, lại có người lấy pháo ra đốt thả bên đường, nào ngờ khi âm thanh tiếng pháo vẫn còn nổ giòn bên tai, lại thấy người Bắc Mạc cũng tiến vào cửa thành…

Lần này, dân chúng Thái Hưng đúng là trợn tròn mắt mà nhìn.

Nghị hòa vốn là hai bên đều phải phái sứ thần đến cùng bàn bạc, năm Thịnh Nguyên thứ hai, Nam Hạ và Bắc Mạc đã từng cùng nghị hòa một lần, nên lần này hai sứ đoàn vừa thấy mặt nhau, hắc hắc! Quả thật đều là chỗ quen biết cũ! Thế nên, ngay cả màn giới thiệu cũng miễn, cả hai phái đoàn liền ngồi luôn vào bàn đàm phán!

Trọng tâm nghị hòa lần này, đơn giản là thông qua đàm phán mà đem tình hình tiến thủ trên chiến trường ra đặt lên bàn cân, tuy rằng mồm mép đôi bên không ngừng đùa bỡn với nhau, nhưng dựa vào thực lực sau lưng, những gì ở trên chiến trường không chiếm được thì trên bàn đàm phán, theo thông lệ cũng không thể chiếm được. Hiện giờ tại vùng Giang Bắc, ngoại trừ thành Thái Hưng đang trong trạng thái bấp bênh, còn lại hầu như đã rơi vào tay người Bắc Mạc, vậy thì thử nói xem chữ “Hòa” này nên đàm pháp như thế nào?

Sứ đoàn nghị hòa của Nam Hạ chịu áp lực rất lớn! Trước khi lâm trận, hoàng đế đã có mật chỉ rằng: Không được để mất đất, tiền cống hàng năm không ngại nhiều hay ít, có tăng tới trăm vạn cũng không tiếc. Lời này nói trắng ra chính là, chỉ cần không cắt đất, còn bồi thường bao nhiêu tiền ta cũng không quan tâm! Nhưng vấn đề ở chỗ, người ta chẳng những muốn ngươi nhất định phải bồi thường tiền, mà còn muốn ngươi đem nửa vùng Giang Bắc cũng phải nhượng lại cho anh ta! Mục tiêu của hai bên quá khác xa nhau, thật đúng là không có cách nào để đàm phán!

Cao Cát xoa tay bối rối, ái chà chà, đây chẳng phải là muốn lấy mạng của hắn ta sao! Chẳng có cách nào, chỉ có thể đem tình huống trước mắt mà hồi tấu lên triều đình vậy. Đợi nửa tháng sau, trong triều cuối cùng cũng có hồi âm, nói rằng có thể giao Dự Châu cho Bắc Mạc, nhưng Thái Hưng thì quyết không thể. Cao Cát được triều đình tin tưởng, lại tiếp tục cùng sứ thần Bắc Mạc biện luận, nhưng sứ thần Bắc Mạc là Trương Vương lại mồm miệng xảo quyệt, thế nào cũng kiên trì đòi Nam Hạ phải nộp cống. Cao Cát bất đắc dĩ đành phải lần nữa hồi tấu lên triều đình.

Lần này hồi âm của triều đình lại mất rất nhiều thời gian, chư tướng chỉ biết trong triều cùng thát tử nghị hòa, lại không biết việc nghị hòa diễn ra như thế nào. A Mạch hộ tống Vệ Hưng ở trong thủ phủ thành Thái Hưng, song rất ít khi nhàn rỗi, mỗi ngày đều luyện võ trong sân, đồng thời cũng ở cùng với các tướng lãnh khác vừa đến thành Thái Hưng. Chư tướng trong quân Giang Bắc được nghe chuyện A Mạch lập kì công, cứu quân Giang Bắc từ thoát khỏi nguy nan, hiện nay lại thấy nàng không hề cậy công mà kiêu ngạo, ngôn từ cử chỉ vô cùng bình dị gần gũi, vì thế càng trở nên kính trọng.

Người Nam Hạ tự xưng là đất nước của lễ nghi, luôn dùng lễ để đối đãi với người ngoài, nên đối với sứ đoàn Bắc Mạc cùng tướng lãnh hộ vệ lại càng tương kính như tân. Nhưng quân Giang Bắc và Bắc Mạc giao chiến đã lâu, mọi người trong quân đối với thát tử có nhiều nỗi phẫn hận, mỗi lần ở trong thành Thái Hưng nhìn thấy thát tử đều khó tránh khỏi tức giận, nhất thời nóng nảy không kiềm chế được liền rút đao xông vào, mặc dù Vệ Hưng ban nghiêm lệnh ngăn cấm, nhưng trong thành, tướng sĩ hai bên lại vẫn thường xuyên xảy ra xô xát.

Vệ Hưng vài lần định giết người lập uy, nhưng vì A Mạch ở bên cạnh ra sức khuyên can mới bảo vệ được tính mạng của mấy tướng lãnh kia. A Mạch khuyên Vệ Hưng: “Đại tướng quân giữa chừng tiếp nhận quân Giang Bắc, tướng lãnh trong quân vốn coi trọng Đường tướng quân hơn đại tướng quân, đại tướng quân không nghĩ cách làm thế nào thu phục lòng người, trái lại lại muốn làm ác nhân. Giết chết vài người cũng không tính là gì, nhưng vì thế mà làm tổn hại đến quân tâm, về sau đại tướng quân sao có thể lĩnh quân được nữa?”

Vệ Hưng nghe A Mạch nói thẳng băng như thế, nhất thời trố mắt, nỗi tức giận trong lòng cũng tiêu tan đi quá nửa, chỉ phạt mấy tướng lãnh này mấy chục quân côn rồi thôi, từ đó về sau đối với A Mạch càng nể trọng hơn, đối đãi với nàng như tâm phúc của mình.

Tháng sáu, thời tiết càng lúc càng nóng, A Mạch lại càng ít khi ra ngoài, mỗi ngày đều ngồi lỳ trong phòng đọc sách, ngay cả đến thăm Đường Thiệu Nghĩa cũng rất ít đi. Một ngày nọ, trong lúc A Mạch đang lười biếng nằm trên ghế dài đọc sách, Trương Sĩ Cường từ bên ngoài đi nhanh vào, chưa nói gì mà trước hết uống cạn một chén nước lạnh, lúc này mới nhỏ giọng nói: “Đại nhân, có hồi âm của Từ tiên sinh.”

A Mạch vục dậy, nói: “Lấy ra đây!”

Trương Sĩ Cường cẩn thận lấy phong thư từ trong người ra đưa cho A Mạch. Thư vẫn còn phong kín, A Mạch mở ra, thấy cũng chỉ có tám chữ: Phi binh bất cường, phi thương bất phú1). A Mạch nhất thời không nói gì, trong lòng thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh, tất nhiên là nàng biết nếu có sự tương trợ của Thương Dịch Chi, quân Giang Bắc sẽ dễ như trở bàn tay, nhưng giờ nàng biết đi tìm Thương Dịch Chi ở đâu!

A Mạch thấp giọng mắng Từ Tĩnh mấy lần, ngẩng đầu lên thấy Trương Sĩ Cường đang dùng vẻ mặt khẩn trương nhìn mình, không khỏi cười cười, lấy thư giao cho anh ta đem đốt. Trương Sĩ Cường cẩn thận tiêu hủy lá thư, quay lại nhìn A Mạch, thấp giọng hỏi: “Đại nhân, làm sao bây giờ?”

A Mạch muốn làm gì bây giờ? Nàng trầm ngâm một lát, đột nhiên ngẩng đầu nói với Trương Sĩ Cường: “Nhị Đản, lần này e là ngươi phải tự mình đi Thịnh Đô một chuyến rồi.”

Trương Sỹ Cường khẽ giật mình, nhưng cũng không hỏi vì sao, chỉ hỏi: “Khi nào thì đi?”

A Mạch nói: “Đợi ta nghĩ ra một lý do quang minh chính đại đã.”

Ai ngờ không cần A Mạch phải nghĩ ra lý do quang minh chính đại nào cho Trương Nhị Đản đi Thịnh Đô thì Thương Dịch Chi đã tự mình từ Thịnh Đô đến Thái Hưng. Khi A Mạch biết được tin tức này từ Vệ Hưng, không khỏi có chút kinh ngạc, phái nhân vật cao nhất của phe chủ chiến đến nghị hòa, chữ “Hòa” này có thể bàn được sao? Chẳng qua là mặc kệ “Hòa” như thế nào đi chăng nữa, chỉ nói riêng chuyện Thương Dịch Chi sẽ đến Thái Hưng, A Mạch cũng đã vừa mừng vừa sợ, trong lòng lại thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh quả nhiên có chút bàng môn tả đạo(2).

Ngày mười chín tháng sáu, Vĩnh xương hầu Thương Dịch Chi tới Thái Hưng, tiếp nhận nhiệm vụ của Cao Cát, cùng Bắc Mạc tiến hành đàm phán. Cao Cát đúng là kinh hỉ vạn phần, bàn giao cho Thương Dịch Chi xong, liền đóng gói đồ đạc hồi kinh báo cáo công tác.

Đêm đến, thủ thành Thái Hưng là Vạn Lương đặt tiệc rượu tẩy trần cho Thương Dịch Chi ở tửu lâu bậc nhất trong thành, mời Vệ Hưng và các tướng lĩnh cùng tham dự.

Trong bữa yến tiệc, Thương Dịch Chi không mặc quan phục, đầu đội kim quan, thân mặc màu áo bào trắng, bên hông đeo ngọc bội, mặt như mĩ ngọc, mắt sáng như sao, cử chỉ phong lưu. A Mạch đã thấy qua dáng vẻ này của anh ta, nên cũng chẳng lấy gì làm lạ, nhưng Đường Thiệu Nghĩa và chư tướng trong quân Giang Bắc lại chỉ nhớ rõ Thương nguyên soái tuấn nhan lạnh lùng trong một thân nhung trang, giờ chợt nhìn thấy một Thương Dịch Chi dáng vẻ phong lưu như thế, nhất thời đều có chút ngây ngốc, sau đó không hẹn mà cùng nhìn về phía A Mạch âm thầm so sánh, phát hiện ra Thương Dịch Chi hiện giờ so với A Mạch vốn nổi tiếng là tiểu bạch kiểm trong quân Giang Bắc còn trắng hơn đôi phần.

Thương Dịch Chi trước cùng Vệ Hưng hàn huyên vài câu, sau lại quay đầu nhìn về phía chư tướng, khẽ cười nói: “Chư vị, lâu rồi không gặp.”

Chư tướng lúc này mới phục hồi tinh thần, nhất tề hướng về phía Thương Dịch Chi làm lễ chào hỏi. Đợi mọi người chào xong, lại chiếu theo thân phận và địa vị mà ngồi xuống, tiệc rượu lúc này mới bắt đầu. Thái Hưng chính là tòa thành lớn nhất vùng Giang Bắc, sự phồn hoa tất nhiên những nơi khác không thể sánh bằng, thành Thái Hưng mặc dù bị bao vây hai năm, nhưng trong thành, rượu ngon và thức ăn ngon vẫn như trước không hề thiếu, khiến cho chư tướng quân Giang Bắc từ núi Ô Lan đến đây được một phen đại khai nhãn giới.

Thành thủ Vạn Lương lại nghe nói Thương Dịch Chi phong lưu thành tiếng, nên cố ý mời ca cơ đến tiếp khách, không chỉ Thương Dịch Chi, mà bên cạnh Vệ Hưng cũng có mỹ nhân bồi rượu, ngay cả A Mạch và các tướng quân Giang Bắc mỗi người cũng có một mỹ nhân.

A Mạch vốn tạm thời nhận chức hữu phó tướng quân Giang Bắc của Lý Trạch, cùng Đường Thiệu Nghĩa ngồi chung một bàn tiệc, thấy dáng ngồi của anh ta thẳng đơ nghiêm chỉnh không khỏi cười thầm, mượn lúc uống rượu thấp giọng nói: “Đại ca, đây chỉ là một bữa yến tiệc, huynh cứ thả lỏng bản thân mà thoải mái một chút đi.”

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy khẽ gật đầu, song thân hình vẫn bất động như cũ. A Mạch thấy vậy thì cười bất đắc dĩ, không nói thêm nữa, chỉ cùng mọi người uống rượu.

Rượu uống chưa tới tầm, nhưng mọi người đã không còn câu thúc giống như lúc ban đầu, có người bắt đầu trêu ghẹo ca cơ bên cạnh. Trên bàn tiệc của Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch, ca cơ thấy cả hai người đều là nam tử tuổi trẻ tuấn lãng, ngôn ngữ cử chỉ có nhiều phần khiêu khích, A Mạch chỉ khẽ cười không quan tâm, nhưng Đường Thiệu Nghĩa ngồi bên cạnh thì lại vừa thẹn vừa quẫn.

Ca cơ kia mượn cớ mời rượu mà dựa sát vào người Đường Thiệu Nghĩa, hù Đường Thiệu Nghĩa phải tránh vội sang một bên, vì thế lập tức ngã vào người A Mạch. A Mạch lúc đó trong tay vốn đang cầm chén rượu, nghiêng tai lắng nghe Thương Dịch Chi và Vệ Hưng nói chuyện, lại bị Đường Thiệu Nghĩa va vào suýt nữa thì làm đổ, không khỏi quay lại có chút ngạc nhiên nhìn Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa lại hiểu lầm ý của A Mạch, tưởng nàng nghĩ anh ta không làm chủ nổi bản thân, nhất thời cảm thấy vô cùng xấu hổ, trong cơn tức giận liền đẩy mạnh ca cơ ra, đứng bật dậy khỏi bàn tiệc.

Mọi người thấy Đường Thiệu Nghĩa đẩy ngã ca cơ rồi đột nhiên đứng dậy đều ngẩn ra, nhất tề đều nhìn về phía anh ta. Vạn Lương đưa mắt nhìn ca cơ vẫn nằm úp sấp trên chiếu, bất động thanh sắc hỏi: “Đường tướng quân có gì không vừa lòng sao?”

Đường Thiệu Nghĩa mặt mũi đỏ bừng, nghẹn ngào nói không ra lời. A Mạch vội đưa tay kéo Đường Thiệu Nghĩa ngồi xuống, cười nói với Vạn Lương: “Vạn đại nhân không biết đấy thôi, Đường tướng quân da mặt mặc dù rất đen nhưng lại rất mỏng, bình thường khi có cô nương nào nhìn một chút đều không dám ngẩng mặt lên nhìn, hôm nay lại có mỹ nhân muốn ngồi vào lòng anh ta, anh ta nhất thời đâu thể tiêu hóa nổi? Vốn cũng muốn ôm ấp mỹ nhân, nhưng nhất thời kích động, gấp đến độ lập tức đứng bật dậy.”

A Mạch nói rất khôi hài, khiến Đường Thiệu Nghĩa đỏ thẫm mặt, mọi người sửng sốt rồi cùng bật cười ha hả.

Còn Đường Thiệu Nghĩa cả người không được tự nhiên, ca cơ bên cạnh giờ thành thành thật thật ở một bên phụng rượu, không hề dám khiêu khích nữa, nhưng trong đầu Đường Thiệu Nghĩa lại luôn không khống chế được mà nghĩ về cảm giác khi đụng chạm vào người A Mạch, càng nghĩ càng cảm thấy trên mặt nóng bừng, khuôn mặt ngăm đen càng lúc càng đỏ gay gắt.

Thương Dịch Chi thu hết trạng thái quẫn bách của Đường Thiệu Nghĩa vào trong mắt, khẽ cười, quay đầu thấp giọng nói với Vạn Lương câu gì đó, Vạn Lương khẽ sửng sốt giật mình, vô cùng kinh ngạc nhìn Đường Thiệu Nghĩa.

A Mạch biết điều mà Thương Dịch Chi và Vạn Lương nói tất nhiên là liên quan đến Đường Thiệu Nghĩa, không khỏi giương mắt nhìn Thương Dịch Chi, đúng lúc chạm vào tầm mắt của anh ta, A Mạch đón nhận ánh mắt của Thương Dịch Chi chỉ thản nhiên cười cười. Nhưng Thương Dịch Chi thì lại khẽ run lên, sau đó dấu diếm đưa tầm mắt đi nơi khác.

————————-

Chú thích:
1- Phi binh bất cường, phi thương bất phú: Không có quân đội không thể mạnh, không có giao thương buôn bán không thể giàu. Ở đây Từ Tĩnh chơi chữ, “phi thươngbất phú” hiểu theo nghĩa bóng là không có Thương Dịch Chi thì quân Giang Bắc không thể phát triển thuận lợi.
2- Bàng môn tả đạo
Bàng: Bên cạnh. Môn: Cửa. Tả: Trái lẽ, không chánh. Ðạo: Tôn giáo.
Bàng môn là cửa hông, không phải cửa chánh. Tả đạo là tôn giáo sai trái. Bàng môn Tả đạo là chỉ chung các tôn giáo, học thuyết dẫn dắt con người vào đường tà vạy quanh co, có xu hướng trục lợi cầu danh, không đạt được kết quả chơn chánh.
Bàng môn Tả đạo do Quỉ Vương lập ra, để kình chống và giành giựt nhơn sanh đối với các Chánh đạo do các Ðấng Phật, Tiên mở ra hay do Ðức Chí Tôn mở ra.
Với trí xét đoán phàm phu, chúng ta khó phân biệt đâu là Chánh đạo, đâu là Tả đạo Bàng môn, vì Tả đạo được Quỉ Vương phủ lên một lớp nước sơn hoa mỹ tinh vi; chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều bị chúng mạo danh, lại còn dùng nhiều hình thức huyền diệu hơn cả chánh đạo, để mê hoặc nhơn sanh.
Ở đây, ý A Mạch muốn ám chỉ việc Từ Tĩnh cố tình giả thần lộng quỷ, sử dụng cách nói bóng nói gió để truyền đạt một việc mà ai cũng biết rồi.

THỔ LỘ TÂM CAN
Đợi cho bữa tiệc chấm dứt, Vạn Lương và Vệ Hưng đưa Thương Dịch Chi trở về, các chư tướng còn lại tự mình trở về thành phủ. A Mạch lên ngựa, cùng Đường Thiệu Nghĩa và Lâm Mẫn Thận sóng hàng ngang mà đi. Đường Thiệu Nghĩa vẫn không dám nói chuyện cùng A Mạch, nhìn chằm chằm về phía trước không chớp mắt, Lâm Mẫn Thận thấy anh ta vẫn trầm mặc, không khỏi nhìn chăm chú, đột nhiên cười nói: “Đường tướng quân, mặt ngươi sao vẫn đỏ thế?”

Lời vừa nói ra, khiến tất cả mọi người đi cùng đều nhìn Đường Thiệu Nghĩa, Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch cũng nhìn về phía mình, trong lòng lại có chút bối rối, vội vàng giải thích: “Uống nhiều rượu quá nên bốc lên mặt.”

Chức quan của Đường Thiệu Nghĩa tuy rằng cao hơn so với mọi người, nhưng bình thường anh ta đối đãi với người khác luôn khoan dung nhân hậu, hơn nữa hán tử trong quân vốn toàn là người ngay thẳng, cho nên mọi người không ai có thái độ e dè với anh ta, nghe anh ta giải thích như thế thì có kẻ lại càng ra sức trêu chọc: “E là chẳng phải say rượu mà là say người thôi!”

Mọi người nghe vậy không khỏi nhớ tới biểu hiện quẫn bách của Đường Thiệu Nghĩa trên bàn tiệc, lại cười ầm lên. Đường Thiệu Nghĩa thận trọng đưa mắt liếc nhìn A Mạch, thấy nàng cũng cười vui hớn hở theo mọi người, không những không cảm thấy buồn phiền mà ngược lại trong lòng lại như có dư vị ngọt ngào dâng lên, vì thế cũng ngây ngô cười theo. Lâm Mẫn Thận thấy thế, khẽ mím khóe môi, ghé sát vào tai Đường Thiệu Nghĩa thấp giọng cười nói: “Đường huynh, đừng nói là ngươi chưa bao giờ chạm tay vào mỹ nhân nào nhé? Hay là để tiểu đệ đưa Đường huynh đi khai giới, thế nào?”

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong sửng sốt, lập tức lạnh mặt mà nói: “Lâm tham quân, thỉnh tự trọng!”

Lâm Mẫn Thận nghe xong chẳng thấy giận tí nào, chỉ làm như vô tình quét mắt nhìn thoáng qua A Mạch, khẽ nở một nụ cười, rồi quay đi nói chuyện với người bên cạnh.

Mọi người lại đi tiếp, khi đi ngang qua một tửu lâu phồn hoa khác trong thành, đúng lúc có mấy thị vệ Bắc Mạc đi ra, A Mạch nhìn vài lần, thấp giọng nói: “Thành Thái Hưng của chúng ta tốt như vậy lại để cho lũ thát tử đi ra đi vào như chỗ không người, thật đáng giận!” Một viên tướng bên cạnh nàng vốn nhìn thát tử không lọt mắt, nghe vậy lại càng bốc hỏa, không nhịn được liền quay đầu hướng về phía tửu lâu nhổ một bãi nước bọt, cao giọng mắng: “Con mẹ nó, đúng thật là xui xẻo, đi đường cũng gặp phải dã quỷ!”

Lời vừa nói ra, mấy tên thị vệ Bắc Mạc giận dữ quay lại nhìn đám người A Mạch, tay cầm loan đao sáng loáng sắc nhọn, chư tướng của A Mạch cũng không yếu thế, đều rút kiếm đối ứng. Chính vào lúc hai bên đang giương cung bạt kiếm, thì trong tửu lâu có một vị công tử trẻ tuổi mặc trang phục Bắc Mạc đi ra, thấy tình hình như vậy ôn tồn hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

Một gã thị vệ phía trước vội vàng quay lại cung kính đáp: “Công tử, là do nam nhân kia kiếm chuyện.”

Công tử trẻ tuổi kia nghe thấy vậy liền ngẩng đầu nhìn qua hướng đó, khi tầm mắt rơi trên ngươi A Mạch thân thể lập tức cứng đờ lại, một lát sau mới lại tiếp tục nhìn tiếp về phía sau. Trong khoảnh khắc thoáng dừng lại đó, Lâm Mẫn Thận và Đường Thiệu Nghĩa đang đứng cạnh A Mạch cùng đã phát hiện ra, không tự chủ được cũng đưa mắt nhìn A Mạch, chỉ thấy nàng bình tĩnh ngồi trên lưng ngựa, không hề biến sắc. Đến khi quay lại nhìn vị công tử trẻ tuổi kia, thấy anh ta cũng đã là thu hồi tầm mắt.

Công tử trẻ tuổi kia thản nhiên nói với thị vệ Bắc Mạc: “Đi thôi.”

Nghe anh ta nói như vậy, mấy thị vệ Bắc Mạc mặc dù không cam tâm, nhưng cũng rất nghe lời mà thu đao lại. Có thị vệ đã dắt ngựa đến, vị công tử trẻ tuổi xoay người lên ngựa, mang theo vài tên thị vệ đi lướt qua đám người A Mạch. Mọi người thấy bọn họ cứ như vậy mà đi, nhất thời đều có chút trố mắt, tướng quân Lĩnh Kỳ, vốn cũng nổi danh trong quân Giang Bắc ngạc nhiên nói: “Ái chà! Lũ thát tử này hôm nay làm sao vậy nhỉ? Tưởng rằng sẽ đánh nhau với chúng một trận cơ đấy, thế nào lại bỏ đi rồi!”

Mấy người cười ầm lên, Đường Thiệu Nghĩa lại giáo huấn: “Chớ có sinh sự nữa, lúc về khó tránh khỏi đại tướng quân trách phạt!”

Mọi người vẫn biết Vệ Hưng đã ban nghiêm lệnh cấm tướng sĩ trong quân xô sát với thát tử, vài lần muốn giết người lập uy, may mà có A Mạch khuyên can mới giữ được tánh mạng, hiện nghe Đường Thiệu Nghĩa nói thế đều thu lại không ít khí thế, nhưng hán tử lỗ mãng kia vẫn kêu lên: “Trách phạt thì trách phạt, cùng lắm thì lại nhận mấy chục quân côn! Vệ đại tướng quân từ Thịnh Đô đến, làm sao biết được quân Giang Bắc chúng ta cùng với thát tử có mối huyết hải thâm cừu, ông ta có thể cùng thát tử xưng huynh gọi đệ, nhưng ta thì cũng không thể!”

A Mạch vốn vẫn trầm mặc, nghe xong lời này đột nhiên mở miệng nói: “Lão Mạc, nhà ngươi cả ngày chỉ biết gây chuyện thị phi, nếu ngươi gặp rắc rối một lần nữa, ta cũng không đảm bảo sẽ giữ được cái đầu của ngươi đâu!”

Lão Mạc nghe xong thì xoa đầu hắc hắc cười gượng hai tiếng, rồi không dám tiếp tục càu nhàu nữa.

Khi mọi người trở lại thành thủ thì đã là nửa đêm, có binh sĩ đến dắt ngựa đi, mọi người cũng đều tự tản đi nghỉ ngơi. A Mạch từ biệt Đường Thiệu Nghĩa và mọi người, một mình đi một hướng, đi một mạch đến chỗ không người mới đột nhiên lấy tay chống lên bức tường, thân thể không kiềm chế nổi mà bắt đầu run lên.

Trần Khởi, Trần Khởi, không thể ngờ được anh ta sẽ xuất hiện ở nơi này! A Mạch hít sâu mấy hơi, cố gắng áp chế cảm xúc xuống, nhất thời cố không suy nghĩ nhiều, chỉ bước nhanh về chỗ ở của mình. Trương Sĩ Cường thấy nàng sắc mặt tái nhợt không khỏi có chút lạ, hỏi: “Đại nhân, xảy ra chuyện gì?”

A Mạch lắc đầu, yên lặng ngồi đến hơn nữa ngày, mới đột nhiên hỏi Trương Sĩ Cường: “Điều tra rõ chưa?”

Trương Sĩ Cường gật đầu, đem thứ gì đó đã chuẩn bị tốt đưa cho A Mạch, có chút chần chờ hỏi: “Đại nhân, như vậy có được không? Không bằng để ban ngày hãy đi.”

A Mạch lật xem quần áo và giày mũ mà Trương Sĩ Cường chuẩn bị cho nàng, nói: “Ban ngày tránh sao được tai mắt của nhiều người, nếu ta đi nhất định sẽ khiến Vệ Hưng biết.”

Trương Sĩ Cường vẫn có chút do dự: “Nhưng nếu để người khác phát hiện thì phải làm sao?”

A Mạch nghĩ nghĩ, đáp: “Trước không cần nghĩ nhiều như thế, cứ tùy cơ ứng biến.”

Thấy A Mạch vẫn kiên trì như vậy, Trương Sĩ Cường bất đắc dĩ đành phải đem các con đường bên trong thành phủ cùng quy luật tuần tra của thị vệ trên các tuyến đường đều nhất nhất nói với nàng, lại sợ A Mạch không nhớ rõ, nhịn không được muốn nhắc lại một lần nữa. A Mạch mỉm cười, nói: “Ngươi chỉ cần không nhớ lầm, ta cũng sẽ không nhớ lầm, không cần phải nói lại nữa.”

Trương Sĩ Cường ngượng ngùng cười cười, đứng dậy vội vàng đi ra, đứng ngoài cửa đợi một lát, một lát sau, A Mạch trong trang phục áo xám, mũ quả dưa của người hầu đi ra, đến sát bên cạnh anh ta thấp giọng nói: “Ngươi về phòng đi, nếu có người gõ cửa cũng không được mở, chỉ nói ta ngủ say rồi, có việc gì ngày mai nói sau.”

Trương Sĩ Cường gật đầu, chờ đến khi thân ảnh của A Mạch không chút động tĩnh biến mất trong bóng đêm, lúc này mới nhẹ nhàng đóng cửa lại.

Thành phủ mặc dù bảo vệ rất nghiêm, nhưng A Mạch ở trong phủ đã nhiều ngày, hơn nữa lại biết rõ quy luật tuần tra trên các tuyến đường của thị vệ nên dọc đường đi không gặp phải nguy hiểm gì, thuận lợi ra khỏi khuôn viên của thành thủ. Vừa ra khỏi thành thủ, A Mạch liền đi rất nhanh, không bao lâu sau đã đến nơi ở của Thương Dịch Chi.

Lần này Thương Dịch Chi đến Thái Hưng với thân phận sứ thần nghị hòa, vốn nên ở tại thành phủ của Vạn Lương, nhưng trưởng công chúa vốn có phủ đệ ở Thái Hưng, hơn nữa Vệ Hưng và chư tướng quân Giang Bắc đều ở bên trong thành phủ, Thương Dịch Chi vì tránh hiềm nghi, liền đến ở trong phủ đệ của mình.

A Mạch cân nhắc vài lần, cuối cùng quyết định từ bỏ ý định trèo qua tường, đi ra cửa sau cầu kiến Quý Thuận. Đã quá nửa đêm, ở cửa sau lại có người cầu kiến đại quản gia từ Thịnh Đô đến, chuyện này nhìn thế nào cũng thấy có chút quái dị, nhưng người giữ cửa kia lại không chút kinh ngạc, ngay cả hỏi cũng không hỏi một câu, chỉ cúi đầu mời A Mạch vào, sau đó đưa A Mạch đến gặp Thương Dịch Chi.

Thương Dịch Chi đã là thay áo bào, trên người chỉ mặc một tấm áo đơn màu trắng, có chút lười nhác dựa trên giường La Hán(1) đọc sách.

A Mạch trịnh trọng cúi xuống hành quân lễ, cung kính nói: “Nguyên soái.”

Thương Dịch Chi buông quyển sách trên tay xuống rồi ngẩng đầu lên nhìn, ngừng một lát lúc này mới nhẹ giọng nói: “Đứng lên! Ngồi đi!”

Anh ta tuy nói vậy, song A Mạch nào dám ngồi, chỉ thành thật đứng một bên, không đợi Thương Dịch Chi hỏi liền đem tình hình quân vụ của quân Giang Bắc trong một năm qua bẩm báo với Thương Dịch Chi. A Mạch chưa bẩm báo xong, Thương Dịch Chi đã đột nhiên lên tiếng hỏi: “A Mạch, ngươi tìm ta là muốn nói việc này sao?”

A Mạch đờ người ra, nàng tìm anh ta quả thật không phải vì chuyện này, hơn nữa những việc này sợ là không cần nàng nói, Thương Dịch Chi đã sớm biết cả rồi. Chỉ có điều, trước khi nói chuyện đại sự thì dù sao cũng phải đem mấy việc nhỏ nhặt khác ra làm bước đệm thì mới tốt.

A Mạch đang không biết nên trả lời như thế nào, Thương Dịch Chi lại khẽ cười, khích lệ nàng: “Ngươi làm tốt lắm.”

A Mạch thật không có thói quen nhìn Thương Dịch Chi dùng vẻ mặt ôn hoà như vậy nói chuyện với mình, tiểu Hầu gia phong lưu tiêu sái như vậy làm sao khiến người ta nhìn thuận mắt như vị nguyên soái mặt lạnh như tiền trong núi Ô Lan kia được. A Mạch lo nghĩ, rồi ngẩng đầu lên nhìn thẳng Thương Dịch Chi, hỏi: “Trong triều thật muốn cùng thát tử nghị hòa sao?”

Thương Dịch Chi yên lặng nhìn A Mạch, dần dần thu lại vẻ tươi cười trên mặt, gật đầu nói: “Không sai.”

“Như vậy sao được!” A Mạch nóng nảy nói: “Bây giờ mà nghị hòa, chẳng phải đem bao công sức của chúng ta từ trước đến nay ra làm trò cười sao? Cho dù phải nghị hòa, cũng phải chờ chúng ta đánh đuổi thát tử ra khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương rồi mới có thể bàn đến chứ!”

Thương Dịch Chi bình tĩnh đợi A Mạch nói xong, mới thản nhiên nói: “Nói một chút tình hình trong triều cho ngươi nghe, hiện giờ thực sự không đủ thực lực để tác chiến từ hai phía, nên chỉ có thể nghị hòa với thát tử, tạm thời dập tắt một mối họa.”

A Mạch vội la lên: “Thát tử đâu phải là đồ ngốc, sao lại không biết! Nguyên soái! Ngài không phải…”

“Ta sớm không còn là nguyên soái quân Giang Bắc nữa rồi!” Thương Dịch Chi đột nhiên lạnh giọng cắt ngang lời A Mạch, nói: “Ta giờ là đại sứ nghị hòa của Nam Hạ, Vĩnh Xương hầu Thương Dịch Chi.”

A Mạch nhất thời trố mắt, ngơ ngác nhìn Thương Dịch Chi, một lúc lâu sau, mới chậm rãi thu hồi tầm mắt, cúi đầu nhẹ giọng hỏi: “Quân Giang Bắc thì thế nào?”

“Vượt sông rút về phía Nam, điều động đi bình định Vân Tây.” Thương Dịch Chi đáp.

A Mạch đột nhiên ngẩng đầu, trong mắt tràn ngập nỗi khiếp sợ: “Chẳng lẽ thật sự sẽ đem toàn bộ vùng Giang Bắc giao cho thát tử sao?”

Thương Dịch Chi cười tự giễu, nói: “Bằng không thì tại sao thát tử đang chiếm ưu thế khắp nơi lại đồng ý nghị hòa? Không phải như vậy, sao lại để cho ta tới đây làm đại sứ nghị hòa? Tất nhiên là để tìm người làm cái chuyện bị bêu danh thiên cổ rồi.”

Từ nay về sau, cái mà mọi người nhớ đến không phải là nguyên soái quân Giang Bắc Thương Dịch Chi, người cầm quân đánh thát tử Bắc Mạc, mà là kẻ ký kết hiệp ước bán nước nhục nhã Thương Dịch Chi. Dùng chuyện bị bêu danh thiên cổ để đổi lấy sự yên tâm của Tề Cảnh, dùng nửa giang sơn để đánh cược cho một lần phản kích của anh ta… Từ nay về sau sau, Thịnh Đô sẽ không còn người nào nghi kỵ anh ta nữa.

A Mạch vẫn kinh ngạc nhìn Thương Dịch Chi, Thương Dịch Chi quay đi tránh tầm mắt của A Mạch, một lát sau khi nhìn lại, ánh mắt đã trở nên bình tĩnh. A Mạch không nói gì, Thương Dịch Chi cũng chỉ nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi còn có rất nhiều điều chưa hiểu.”

A Mạch đang muốn tiếp tục giả ngu, lại nghe Thương Dịch Chi thản nhiên nói: “Nếu muốn cùng người khác thổ lộ tâm can, chi bằng giãi bày toàn bộ tâm can của mình ra trước. Ngươi sẽ làm như thế nào, có đổi lấy tâm tư của người khác hay không?”

A Mạch chần chờ một lát, cuối cùng quỳ hai gối xuống, cúi thấp người trước mặt Thương Dịch Chi, trầm giọng nói: “A Mạch nguyện lĩnh quân Giang Bắc ở lại Giang Bắc, thay nguyên soái giành lại nửa giang sơn này!”

Hồi lâu vẫn không thấy Thương Dịch Chi trả lời, trên trán A Mạch cũng toát mồ hôi, chờ đến khi nóng ruột thì nghe thấy Thương Dịch Chi chậm rãi hỏi: “Ai?”

A Mạch dứt khoát nói: “Mạch Tuệ nguyện lĩnh quân Giang Bắc ở lại Giang Bắc, thay nguyên soái giành lại nửa giang sơn này!”

Thương Dịch Chi từng bước ép sát: “Mạch Tuệ là ai? Nguyên soái là ai?”

A Mạch cắn chặt hàm răng, hơn nửa ngày mới chậm rãi thả lỏng, cuối cùng lớn tiếng đáp: “Mạch Tuệ, con gái Tĩnh quốc công Hàn Hoài Thành, nguyện lĩnh quân Giang Bắc ở lại Giang Bắc, thay chủ thượng ta là Thương Dịch Chi giành lại nửa giang sơn này!”

Lời nói biến mất ở trong không khí, tiếp đó là một sự yên tĩnh đến dọa người. A Mạch quỳ trên mặt đất, im lặng chờ đợi Thương Dịch Chi. Không biết qua bao lâu, mới nghe thấy Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói: “A Mạch, ngươi ngẩng đầu lên.”

A Mạch theo lời ngẩng đầu lên, yên lặng nhìn về phía Thương Dịch Chi.

Ánh mắt Thương Dịch Chi quan sát rất lâu trên khuôn mặt của A Mạch, cuối cùng dừng lại ở mắt nàng.

“Tên ta là Tề Hoán.” Thương Dịch Chi đột nhiên nói.

A Mạch không khỏi ngạc nhiên.

Thương Dịch Chi nhìn A Mạch chằm chằm, nói thật rõ ràng: “Con trai Vũ đế thái tử Tề Hiển, Tề Hoán.”

Những lời chấn động này khiến đầu óc A Mạch trở nên trống rỗng, chỉ ngây ngốc nhìn Thương Dịch Chi.

Khóe miệng Thương Dịch Chi khẽ hiện lên ba phần ý cười, chậm rãi nói: “A Mạch, ngươi nhớ kỹ, ta có thể đưa ngươi lên thì cũng có thể hạ ngươi xuống.”

Ngữ điệu Thương Dịch Chi mềm mại nhẹ nhàng, nhưng A Mạch nghe lại thấy cả người phát lạnh mà rùng mình, lại phủ phục xuống, cẩn thận nói: “A Mạch nhớ kỹ.”

——————–

Chú thích:
1- Giường La Hán

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét