MÊ MAN
Trong thành Thanh Châu, từ lúc A Mạch từ trên tường thành xuống vẫn có chút trầm mặc ít lời. Trở lại trong thành thủ, tả phó tướng quân Tiết Vũ đã đi Ký Châu xin lương thảo, chỉ có hữu phó tướng quân Mạc Hải còn ở lại phòng nghị sự chờ A Mạch phụng mệnh. Trước đó, anh ta nghe từ miệng thân binh đã biết được tình hình trên tường thành, trong lòng rất cao hứng, nghe nói A Mạch trở về liền đem theo niềm vui rạo rực ra cửa đón nàng, không ngờ lại thấy trên khuôn mặt A Mạch chẳng có đến nửa phần vui sướng. Trong lòng Mạc Hải thấy lạ, nhịn không được lén giữ Trương Sĩ Cường đi sau A Mạch hỏi: “Đại nhân làm sao vậy?”
Trương Sĩ Cường âm thầm lắc lắc đầu. A Mạch đối với động tác nhỏ này của Mạc Hải và Trương Sĩ Cường coi như không thấy, chỉ đơn giản dặn dò vắn tắt mấy việc quân vụ trọng yếu rồi giải tán quân nghị, sau đó một mình ngồi trong phòng nghị sự ngẩn cả người. Trương Sĩ Cường nhận ra tâm tình của nàng có chút bất thường, liền mượn cớ đi lấy nước rồi ra khỏi phòng nghị sự, lén phái thân binh đi mời Từ Tĩnh đến, còn tự mình lại canh giữ ở ngoài cửa.
Một lát sau, Từ Tĩnh chắp tay sau lưng, bước chân thư thả, không vội cũng không chậm từ xa đi đến. Trương Sĩ Cường nhìn thấy, vội vàng tiến lên đón Từ Tĩnh, nhỏ giọng nói: “Tiên sinh mau qua xem đi, ta thấy đại nhân có chút khác thường.”
Từ Tĩnh lại vẫn không vội, vừa bị Trương Sĩ Cường lôi kéo, vừa vuốt râu thì thầm: “Không vội, không vội, với tính tình đại nhân nhà ngươi, sẽ không giữ chuyện gì luẩn quẩn trong lòng đâu.”
Nhưng Trương Sĩ Cường không cảm thấy thế, anh ta đi theo A Mạch đã hơn hai năm, nhưng chưa bao giờ thấy A Mạch có diện mạo như thế. Trương Sĩ Cường cầm tay Từ Tĩnh kéo đến cửa, rồi thay ông ta kéo rèm, hướng vào trong phòng bẩm báo: “Đại nhân, Từ tiên sinh đến.”
A Mạch nghe vậy liền ngẩng đầu, thấy Từ Tĩnh từ bên ngoài tiến vào, liền đứng dậy, cung kính gọi: “Từ tiên sinh.”
Từ Tĩnh gật gật đầu, tùy ý ngồi đối diện với A Mạch, nghiêng đầu quan sát A Mạch, đột nhiên hỏi: “Nguyên nhân là vì mấy tù binh Bắc Mạc kia phải không?”
A Mạch khẽ giật mình, lập tức hiểu ý của Từ Tĩnh, cũng không vội trả lời ngay câu hỏi của anh ta, mà quay đầu sai Trương Sĩ Cường: “Đi pha cho tiên sinh chén trà.”
Trương Sĩ Cường thưa “Vâng”, rồi lui ra ngoài.
A Mạch lúc này mới lại nhìn về phía Từ Tĩnh, cân nhắc một chút rồi nói: “Không phải.”
“A?” Từ Tĩnh không khỏi kỳ quái, mở to hai mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Vậy thì vì chuyện gì?”
A Mạch đáp: “Tiên sinh cũng biết, bản thân mình tòng quân đã giết không ít người, sẽ không vì giết thêm vài tù nhân mà biến thành người khác. Chỉ là khi đi từ trên tường thành xuống, ta đột nhiên nghĩ tới một cách đối phó với việc Thường Ngọc Thanh dùng dân chúng công thành.”
Từ Tĩnh cảm thấy hứng thú, nhướn mày hỏi: “Biện pháp gì?”
A Mạch thong dong đáp: “Chính là trước thì hóa trang thành thát tử tản ra lẫn với dân chúng ngoài thành, sau đó xuất binh ra khỏi thành ép xông trận, khiến cho dân chúng phải quay về, ta lại dùng kỵ binh vòng ra sau lưng địch đánh lén… Cuối cùng, sau trận chiến lại làm lễ tế dân chúng, giả bộ cắt tóc hoặc tự trừng phạt mình, nhân tiện kích động lòng căm thù thát tử của mọi người dâng cao, rồi quay lại trắng trợn khen thưởng bách tính…”
Từ Tĩnh nghe rất chăm chú, vuốt râu khẽ gật đầu: “Không sai, cách này quả thật không sai.”
“Đúng vậy, ta cũng hiểu là cách này không sai. Chỉ đột nhiên lại muốn biết một điều, đó là từ khi nào thì ta bắt đầu không thèm để ý đến tính mạng của người khác như thế? Khi chém đứt sợi dây thừng kia không một chút do dự, khi nghĩ cách phá kế lùa dân công thành cũng không chút bận tâm đến sự sống chết của dân chúng bị ép quay về. Tiên sinh, ta đột nhiên cảm thấy sợ hãi,” A Mạch ngẩng đầu lên nhìn Từ Tĩnh, trong con ngươi trong suốt không hoàn toàn là sự kiên định như mọi ngày, mà lộ ra chút mờ mịt: “Ta từ khi nào thì biến thành kẻ như thế này? Về sau ta có thể còn biến thành dạng gì? Có thành một kẻ mà để đạt được mục đích sẽ không từ bất kỳ thủ đoạn nào không?”
Từ Tĩnh bị A Mạch hỏi thì nghẹn lời, im lặng một lát rồi mới trầm giọng hỏi: “A Mạch, mục đích mà ngươi nhất định muốn đạt được là gì?”
Nhất định phải đạt được mục đích gì? Mục đích này đã xoay chuyển hàng trăm ngàn lần trong đầu A Mạch, A Mạch liền thốt lên: “Bảo vệ vinh quang của phụ thân, đuổi thát tử, khôi phục non sông.”
Từ Tĩnh nghe xong, chậm rãi lắc đầu: “Mục đích này sợ là không thể chống đỡ cho ngươi đi đến cuối cùng.”
Trong lòng A Mạch khó hiểu, không khỏi hỏi lại: “Vì sao?”
Từ Tĩnh lại chỉ cười cười, nói: “Loại chuyện này người khác không thể giúp được, chỉ có thể chờ ngươi sau này tự mình nghĩ thông suốt thôi, vả lại trước cứ như vậy mà tiến lên phía trước đi, chờ khi gặp được lối rẽ, tự mình sẽ biết phải đi về hướng nào.”
A Mạch là người thông minh, chỉ vừa nghe Từ Tĩnh trả lời liền biết ông ta sẽ không nói tiếp, hơn nữa, giờ phút này trong lòng mặc dù vẫn còn nhiều điều chưa rõ, nhưng so với vừa rồi đã khá hơn rất nhiều, lập tức liền đứng dậy chính thức vái một vái cám tạ Từ Tĩnh: “A Mạch đa tạ tiên sinh chỉ điểm bến mê.”
Từ Tĩnh ngồi ngay ngắn, không chút khách khí nhận lễ của A Mạch, sau đó mới đột nhiên nhớ đến Trương Sĩ Cường liền kêu lên: “Trương Sĩ Cường đâu? Anh ta đi đâu pha trà cho lão phu vậy? Chẳng lẽ giờ mới nhóm lửa đun nước?”
A Mạch cười cười, đi tới trước cửa cao giọng gọi Trương Sĩ Cường, lời còn chưa dứt, Trương Sĩ Cường liền đem theo một bình trà mới từ ngoài cửa tiến vào, trên mặt mang theo nụ cười lấy lòng, cười ha ha với Từ Tĩnh nói: “Tiên sinh, ngài thử thưởng thức loại trà này xem thế nào, Lý Thiếu Hướng vơ vét được từ một hộ phú thương ở Thái Hưng đấy, vẫn cất giấu không cho ai uống, hôm nay mới đồng ý để cho ta đem đến đây.”
Trương Sĩ Cường dùng nước nóng rót vào chén trà đưa cho Từ Tĩnh, cẩn thận nâng đến trước mặt Từ Tĩnh. Từ Tĩnh thuận tay tiếp nhận, thổi thổi rồi uống một ngụm, giương mắt lên liền bắt gặp Trương Sĩ Cường vẫn đang dùng cặp mắt tha thiết quan sát mình, thuận miệng khen: “Khà, không sai, đúng là loại dùng để ngâm vào nước sôi.” Thấy trên mặt Trương Sĩ Cường khó nén khỏi sự thất vọng, nhịn không được cười nhạo một tiếng nói: “Thành Thái Hưng bị thát tử vây khốn hai năm, trong thành làm gì có cái gọi là trà ngon? Có thứ ngâm vào nước để uống là tốt rồi.”
Trương Sĩ Cường tức giận nói: “Lý Thiếu Hướng đúng là cái đồ lừa đảo, còn gạt ta nói là loại trà tốt nhất, cái gì mà ‘Minh Tiền, Minh Hậu’, nghe xong ta còn cảm thấy loạn cả đầu!”
Lời này vừa nói ra, ngay cả A Mạch cũng nhịn không nhịn được mà bật cười. Sắc giận trên mặt Trương Sĩ Cường càng đậm, quyết đi tìm Lý Thiếu Hướng để tính sổ. A Mạch vội gọi anh ta dừng lại, khuyên nhủ: “Tính tình Lý Thiếu Hướng hay giấu diếm nọ kia, ngươi thấy anh ta có cái gì là không giấu không? Cũng chưa chắc cố ý nói gạt ngươi đâu.”
Từ Tĩnh đâu có thật sự phẩm trà, liền nói tiếp: “Anh ta đúng là không lừa ngươi, trà này đúng là Minh Tiền, chẳng qua không biết là năm Minh Tiền nào.”
A Mạch nhịn cười, cúi đầu uống ngụm trà, rồi buông chén xuống, nghiêm sắc mặt hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ngươi nói Tiếu Dực có cho Tiết Vũ lương thảo không?”
Trương Sĩ Cường thấy A Mạch cùng Từ Tĩnh bàn chuyện quân sự, không cần phân phó liền nhẹ nhàng lui đi ra ngoài, thuận tay khép cửa phòng lại.
Từ Tĩnh cũng thu hồi vẻ mặt trêu đùa vừa rồi, cụp mắt suy nghĩ một lát, chậm rãi lắc đầu nói: “Ta thấy Tiếu Dực chưa chắc sẽ nể mặt cháu ngoại là Tiết Vũ đâu.”
A Mạch nói: “Nhưng Thương soái đã đáp ứng sẽ giúp ta nắm bắt lấy Ký Châu.”
Từ Tĩnh cười nhạt, nói: “Phụ thân của Thương soái là Thương Duy vừa nắm được binh quyền ở Vân Tây, giờ chính là thời khắc quan trọng, tuyệt không thể khiến hoàng đế nảy sinh lòng nghi ngờ. Nếu ngươi là Thương soái, một bên là Giang Nam – nửa giang sơn, một bên là một góc Giang Bắc, ngươi sẽ chọn cái nào?”
Đó là một vấn đề căn bản không cần phải lựa chọn, Thương Dịch Chi một khi đã nguyện ý đến làm sứ thần nghị hòa thì đã tính bỏ rơi Giang Bắc rồi, chẳng qua nhất thời nghe A Mạch nói liền động tâm, lúc đó mới không đặt việc làm tổn hại lợi ích lớn của mình lên làm điều kiện tiên quyết mà để nàng đông tiến Thanh Châu thuận lợi. A Mạch sau một lúc im lặng mới hỏi: “Chúng ta phải làm sao bây giờ? Lương thảo trong thành chỉ miễn cưỡng chống đỡ được đến vụ gặt lúa mạch sang năm, chỉ có điều hiện giờ Thường Ngọc Thanh có thể áp chế tức giận mà tạm thời chưa công thành, e là cũng muốn đợi cho đến lúc đó.”
Từ Tĩnh khẽ gật đầu, vuốt râu nói: “Không sai, nếu trong thành hết lương, thành Thanh Châu dù khó công cũng không thể thủ được.”
Điều khiến A Mạch lo lắng cũng chính là chuyện này, hai quân đối đầu, khó nhất không phải là không thể biết được bước tiếp theo địch nhân sẽ hành động ra sao, mà là ngươi rõ ràng có thể đoán được ý đồ của anh ta nhưng lại không thể nghĩ ra đối sách ứng phó. Từ Tĩnh và A Mạch nhất thời đều không nói gì, A Mạch suy nghĩ một lát cũng không nghĩ ra được cách gì, liền đứng dậy nói: “Trước cứ như vậy đã, dù sao đợi cho đến vụ gặt sang năm vẫn còn non nửa năm nữa, trong thời gian đó có lẽ sẽ có chuyển biến gì đó không biết chừng. Hơn nữa, Tiết Vũ tốt xấu gì cũng là cháu ngoại của Tiếu Dực, với mối quan hệ này, Tiếu Dực có lẽ cũng chưa đến nỗi chẳng biết xấu hổ mà để cho Tiết Vũ về tay không, ít nhiều gì chắc cũng cho một ít.”
Nói xong, liền gọi Trương Sĩ Cường vào giúp mình cởi áo giáp, sau đó vừa cười vừa nhìn về phía Từ Tĩnh, nói: “Cũng không còn sớm nữa, ta cùng tiên sinh ăn cơm trước đã, hôm nay Lý Thiếu Hướng ở ngoài thành kiếm được mấy món ăn thôn quê, nói là muốn làm cho tiên sinh nhắm rượu.”
Từ Tĩnh nghe vậy chỉ vuốt râu cười, cũng không chối từ. Vật tư trong thành vốn có hạn, A Mạch nêu gương tốt nên ăn uống giống như binh lính, vì vậy các chư tướng cũng đều dùng thực phẩm thô ráp. Từ Tĩnh đến sau, A Mạch lo lắng cho sức khỏe của ông ta nên cố ý lệnh cho Lý Thiếu Hướng một ngày ba bữa đều phải dùng lương thực tinh chế để chế biến đồ ăn cho Từ Tĩnh, mọi ngày, thức ăn mặn cũng không phải những thứ thông thường.
A Mạch sai Trương Sĩ Cường xuống phòng bếp hỏi đồ ăn, còn mình lại cùng Từ Tĩnh nói chuyện phiếm về phong thổ ở hai châu Thanh, Ký. Một lát sau, hai người đang nói tới mấy món ăn dân dã nổi tiếng ở núi Thái Hành, ngoài phòng bỗng có mùi thơm ngào ngạt bay tới, khiến hai người đều dừng câu chuyện, nhất tề quay đầu nhìn về phía cửa.
Rèm cửa bị Trương Sĩ Cường kéo cao lên, Lý Thiếu Hướng bên hông mặc tạp dề bằng vải thô, bưng một cái nồi sắt lớn bước nhanh vào, miệng còn liên thanh kêu lên: “Mau tránh ra một chút, mau tránh ra một chút, nóng lắm!”
Nhìn thấy đường đường quan quân nhu quân Giang Bắc lại hạ mình làm đầu bếp, A Mạch cùng Từ Tĩnh bất giác đều có chút trố mắt, trong đầu không hẹn mà cùng hiện lên một câu: Chồn chúc tết gà, tất không có hảo tâm.
Lý Thiếu Hướng đem nồi sắt đặt lên trên bàn, nóng hôi hổi, lập tức liền chiếm mất quá nửa diện tích mặt bàn. Lý Thiếu Hướng hết nghiêng đầu sang trái lại sang phải, vừa lòng ngắm nghía cái nồi một phen, quay đầu thấy A Mạch và Từ Tĩnh đều vẫn ngồi ngây ra đó, vội vàng nhét vào tay mỗi người một đôi đũa, sau đó rảnh rang bắt chuyện: “Đại nhân, Từ tiên sinh, đừng khách khí a, nếm thử đi, đây chính là bí quyết gia truyền của Lý gia chúng ta đấy.”
A Mạch nhìn vẻ mặt mong đợi của Lý Thiếu Hướng, không tiện từ chối ý tốt của anh ta, đành mời Từ Tĩnh hạ đũa trước, lúc này mới đưa đũa gắp một miếng thịt bỏ vào trong miệng tinh tế nếm thử, không đợi nàng kịp nuốt trôi miếng thịt, quả nhiên nghe thấy Lý Thiếu Hướng mở miệng nói: “Đại nhân, ta có việc muốn cùng đại nhân thương lượng.”
Trong lòng A Mạch vốn vẫn đề phòng Lý Thiếu Hướng, nghe anh ta mở miệng, không nhịn được mà toàn thân phát run, ngẩng đầu liếc mắt nhìn Từ Tĩnh đang lẳng lặng ăn cơm, bất động thanh sắc hỏi Lý Thiếu Hướng: “Chuyện gì?”
MƯU ĐỒ
Lý Thiếu Hướng ghé mông ngồi xuống ghế, nở nụ cười lấy lòng nói: “Chuyện là như vầy, Thái Hành Sơn có không ít lợn rừng, dê núi và các loại thú hoang khác, dù sao hiện giờ tạm thời cũng chưa đánh trận, binh lính của doanh trại cung nỏ cũng nhàn rỗi, theo ta thấy không bằng cho họ lên núi đi săn thú, giờ lại đúng thời điểm thú rừng rất béo và mập mạp…”
A Mạch nghe nhưng không nói gì, thầm nghĩ hay thật, ta chỉ vừa mới ăn của ngươi một miếng thịt, trong khi cách nơi này hơn hai trăm dặm còn có đại quân của Thường Ngọc Thanh nhòm ngó, ngươi đã nghĩ đến chuyện đem binh lính mấy doanh cung nỏ của ta kéo ra ngoài giúp ngươi đi săn thú. Nếu ta ăn hết cả nồi thịt này, có phải là ngươi sẽ đòi toàn bộ binh lính quân Giang Bắc của ta lên núi Thái Hành đi kiếm lương thực cho ngươi không?
Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch không có gì phản ứng gì, trong lòng cũng dần dần cảm thấy chột dạ, nhưng vẫn không chịu từ bỏ ý định, xoa xoa hai tay vào nhau tiếp tục du thuyết(1): “Những tấm bia chết trên giáo trường đâu thể so được với những tấm bia sống trong núi, thứ nhất, đại nhân có thể cải thiện bữa ăn cho mọi người, thứ hai nếu săn được nhiều thú hoang còn có thể sấy khô để làm lương thực dự trữ, làm thực phẩm cho lễ mừng năm mới cũng rất tốt.”
A Mạch nhíu mày ngắt lời Lý Thiếu Hướng: “Ngươi có ý tốt nhưng cách này không thể làm được. Thát tử ở Võ An đối với chúng ta như hổ rình mồi, cách nơi này cùng lắm chỉ hơn hai trăm dặm, thiết kỵ chỉ cần một ngày một đêm là có thể phi ngựa đến đây, sao có thể đem các doanh cung nỏ phái lên núi săn thú được! Hơn nữa, ta đã tính đem các doanh cung nỏ sát nhập vào bộ binh doanh, nên lại càng không thể điều động riêng bọn họ ra ngoài được.”
Lý Thiếu Hướng bị A Mạch nói vậy thì có chút ngượng ngùng, xoa xoa tay nói không ra lời. A Mạch không muốn anh ta sượng mặt, suy nghĩ một lát lại nói thêm: “Nhưng quả thật binh lính thao luyện cũng rất vất vả, cũng nên thường xuyên cải thiện bữa ăn cho họ. Như vậy đi, ta gọi Vương Thất trước lấy những người già yếu trong bộ binh ra cho ngươi dùng.”
Lý Thiếu Hướng thầm nghĩ ‘ngươi cho ta một đám người già yếu, bọn họ còn có khả năng lên núi săn thú ư!’ Song anh ta cũng là người khéo đưa đẩy, mặc dù trong lòng không vui cũng sẽ không biểu lộ ra mặt, chỉ nhìn A Mạch cười gượng hai tiếng.
A Mạch biết Lý Thiếu Hướng không vui, lập tức cười cười, còn nói thêm: “Ngươi đừng xem thường đám người này, cho dù không thể đi săn thú cho ngươi, thì cũng có thể giúp ngươi nuôi gà nuôi lợn cũng rất tốt. Trước kia ta từng nghe có người nói qua vài cách nuôi gà rất hay, đó là đem gà mái chia ra nuôi nhốt trong những lồng sắt nhỏ, mỗi ngày đều cho nó ăn nhưng không cho vận động nhiều, nó sẽ lớn rất nhanh, một con gà con chỉ cần hơn một tháng là thành gà lớn, thịt cũng rất nhiều.”
Thật ra Lý Thiếu Hướng chưa từng nghe thấy cách nuôi gà nào như thế này, cũng không biết có thể nuôi một con gà con trong vòng hơn một tháng là có thể thành gà lớn hay không, nhưng anh ta vừa nghe A Mạch nói đến mỗi ngày chỉ cho gà ăn mà không cho nó vận động, trên mặt lập tức xuất hiện một nụ cười rất tươi, đôi mắt một mí chỉ lộ ra khe hở hẹp nhìn A Mạch cười mà không nói gì.
A Mạch nhìn thế nào cũng cảm thấy nụ cười tươi này có chút quái dị.
Từ Tĩnh ngồi đối diện vốn vẫn yên lặng ăn cơm, đột nhiên ngẩng đầu lên nói với A Mạch: “Cách này thật ra rất hay, chỉ có điều lương thực cho người ăn còn không có thì ngươi bảo anh ta kiếm đâu ra lương thực cho gà ăn?”
Nàng chẳng qua là nhân lúc nghe Lý Thiếu Hướng nói đến chuyện săn thú, mới nhớ đến trước kia mẫu thân từng thuận miệng nói qua cách nuôi gà như vậy, hiện giờ bị Từ Tĩnh hỏi, không khỏi có chút ngượng ngùng. Nụ cười trên mặt Lý Thiếu Hướng lại càng tươi hơn, còn tự tay cầm đũa gắp một cái chân thỏ hoang thả vào trong bát của Từ Tĩnh mời mọc: “Từ tiên sinh, ngài nếm thử cái này đi, xem hương vị thế nào?”
A Mạch nhìn mà bực mình, nhưng cũng không nói thêm nữa, chỉ bảo: “Không nói chuyện này nữa, chờ Tiết Vũ về xem tình hình thế nào rồi sẽ nói sau.”
Nói xong, cũng không khách khí mà thò đũa vào nồi gắp một miếng thịt gà lớn bỏ vào bát.
Mùng sáu tháng mười một, Tiết Vũ từ Ký Châu tay không trở về. Nghe nói Tiếu Dực vốn cho anh ta mấy xe lương thực, Tiếu phu nhân còn cho thê tử của cháu trai ngoại một xe son phấn và tơ lụa, nhưng Tiết Vũ không lấy bất cứ thứ gì, xoay người trở về Thanh Châu.
Trong lòng A Mạch đã sớm đoán được điều này, lựa lời an ủi Tiết Vũ vài câu, rồi bảo anh ta về trước nghỉ ngơi, nhưng Lý Thiếu Hướng thì lại vô cùng tiếc nuối hơn chục cái xe kia, cứ nhắc mãi rằng: “Con ruồi tuy nhỏ nhưng cũng là thịt a, còn hơn là chẳng có gì a.”
Đối với việc này, Vương Thất vốn tán thành với cách xử sự của Tiết Vũ, giờ nghe Lý Thiếu Hướng nói thế không khỏi liếc xéo anh ta một cái, cả giận nói: “Ngươi không sợ ăn thịt ruồi bọ sẽ mắc ói sao!”
Lý Thiếu Hướng xoa xoa hai tay, bất đắc dĩ nói: “Ngươi mà thấy tình trạng của đám lính thì mới biết nỗi khó xử của ta.”
Vì chuyện lương thảo mà lo lắng không chỉ có một mình Lý Thiếu Hướng mà còn có chủ tướng A Mạch của quân Giang Bắc. Tuy đã sớm cùng Từ Tĩnh nhận định rằng Tiếu Dực khó có khả năng cho lương thực, nhưng trong lòng dù sao vẫn có chút hy vọng, hiện giờ chút hy vọng ấy đã tan thành mây khói, ngay cả A Mạch cũng khó tránh khỏi có chút sa sút tinh thần. Nhưng trước mặt Tiết Vũ và chư tướng quân Giang Bắc, nàng không dám mảy may biểu lộ, chỉ khi ở trước mặt Từ Tĩnh mới dám để lộ ra vẻ mặt đau khổ.
Từ Tĩnh vẫn uống loại trà Long Tĩnh không biết từ năm Minh Tiền thứ bao nhiêu mà Trương Sĩ Cường lấy được từ chỗ của Lý Thiếu Hướng, thần thái có chút khoan thai, hoàn toàn không thấy khẩn trương lo lắng, chỉ cười nói: “Ngươi lo cái gì? Chẳng phải trước khi Tiết Vũ đi ngươi đã dặn dò anh ta cách đối phó với Tiếu Dực rất rõ rồi hay sao? Quân Giang Bắc ở Thanh Châu không trụ nổi nữa, chỉ có thể mang theo dân chúng đến tìm ông ta để nương tựa thôi!”
A Mạch cười khổ nói: “Đó chẳng qua chỉ để dọa Tiếu Dực mà thôi, chẳng lẽ có thể thực sự đến chỗ ông ta để tìm nơi nương tựa sao? Ông ta cũng đâu để bị chúng ta uy hiếp.”
Trong mắt Từ Tĩnh chợt lóe tinh quang, nghiêm trang nói: “Sao lại là dọa? Trong thành của ngươi đã hết lương, không chạy về hướng đông thì chạy đi đâu? Chẳng lẽ lại ra khỏi thành quyết chiến cùng Thường Ngọc Thanh? Thế chẳng phải chính là rơi vào quỷ kế của Thường Ngọc Thanh thì là gì!”
A Mạch nhận ra trong lời nói của Từ Tĩnh còn có ý khác, không khỏi khẽ nghiêng người về trước nhìn Từ Tĩnh chằm chằm, hỏi: “Tiên sinh có kế sách đối phó với Thường Ngọc Thanh chăng?”
Từ Tĩnh vuốt râu khẽ cười hỏi: “Cái này còn phải xem ngươi có bỏ được thành Thanh Châu hay không.”
A Mạch hơi hơi mím môi, sau khi thoáng cân nhắc liền nói với Từ Tĩnh: “Xin tiên sinh chỉ giáo cho.”
Từ Tĩnh lại hỏi A Mạch: “Nhưng ngươi có dám bỏ Thanh Châu mà đi không?”
A Mạch yên lặng nhìn Từ Tĩnh một lát, phút chốc nở nụ cười, đáp: “Đánh không lại, bỏ thành đào tẩu chẳng qua cũng là chuyện thường tình của nhà binh. Việc này ta không phải là kẻ đầu tiên, cũng không phải là kẻ cuối cùng làm vậy, tiên sinh nói có phải không?”
Từ Tĩnh nghe vậy vỗ tay cười to: “Không sai, nếu đánh không lại, cũng chỉ có thể bỏ chạy, dù sao thành là vật chết, người mới là vật sống!”
A Mạch đợi Từ Tĩnh ngưng cười, lại trầm giọng hỏi: “Tiếp đó thì sao?”
“Vào vụ gặt lúa mạch, trước khi Thường Ngọc Thanh đến tấn công, quân ta mượn cớ thát tử sẽ tàn sát thành mà gây rối loạn lòng dân trong thành, lưu chút tinh binh che dấu trong dân chúng, sau đó bỏ ngỏ việc phòng thủ thành Thanh Châu,” Từ Tĩnh đưa tay di chuyển đến trạm kế tiếp trên sa bàn, chỉ vào địa hình trên sa bàn nói: “Mai phục hai vạn tinh binh tại bờ sông Tử Nha phía bắc thành Thanh Châu, còn lại thì ẩn tại khe núi Phi Long. Nếu Thường Ngọc Thanh vào thành, thì nhanh chóng vây thành, bộ binh phối hợp với loạn dân toàn lực công thành, tiến hành chiến đấu trên đường phố, kỵ binh phân tán ở phía tây và phía nam thành, hai phía đánh du kích cắt đứt đường lui của Thường Ngọc Thanh, trận chiến này chắc thắng. Nếu Thường Ngọc Thanh trú quân ngoài thành không chịu vào…”
A Mạch nhanh chóng tính toán trong đâu, theo bản năng lại hỏi tiếp: “Chúng ta sẽ làm như thế nào?”
Từ Tĩnh nheo mắt, trầm giọng nói: “Chúng ta cũng không để ý tới loạn dân trong thành, cho năm vạn đại quân nấp trong khe núi phía đông thành cấp tốc rút rui về phía sau, dụ Thường Ngọc Thanh lọt vào khe núi Phi Long, hai vạn tinh binh mai phục bên bờ sông Tử Nha đánh tới, trận này thắng nhỏ, nhưng cũng phải chém được hơn vạn địch; Thát tử thất bại mà bỏ chạy,“Năm vạn đại quân” giữ vững, nhưng hai vạn tinh binh không đủ sức vây kín nên để trống phía tây nam, khiến cho địch phá vòng vây chạy về phía đó, lại dùng kỵ binh chặn đánh ở phía tây nam, tất đại thắng.”
A Mạch nghe xong trầm mặc không nói gì, chỉ dùng ngón tay gõ khẽ lên sa bàn nhìn đến thất thần. Từ Tĩnh biết nàng tất có chủ kiến, cho nên cũng không lên tiếng quấy rầy, chỉ ngồi xuống bên bàn lẳng lặng uống trà. A Mạch yên lặng nhìn một lát, lông mày khi thì nhăn lại, khi thì giãn ra, mọi cách tính kế đều nhất nhất xoay chuyển, cân nhắc trong đầu, lúc này mới ngẩng đầu nhìn Từ Tĩnh nói: “Nếu người khác dẫn quân thì tốt, nhưng nếu là Thường Ngọc Thanh e là sẽ không dễ dàng rơi vào bẫy như thế.”
Từ Tĩnh khẽ cười nói: “Nếu anh ta vẫn án binh bất động, kỵ binh bên ta thừa dịp đêm xuống mà xông đến doanh trại, từng bước vây sát, trận chiến này vẫn thắng.”
A Mạch chậm rãi lắc đầu: “Không phải ở đây, mà là ở đây.” Nàng đưa tay chỉ vào khe núi Phi Long, nói: “Với tính cách của Thường Ngọc Thanh, anh ta sẽ không dễ gì bị chúng ta dụ dỗ xâm nhập sâu vào khe núi Phi Long, mà trước khi chúng ta lui vào trong khe núi Phi Long sẽ phái kỵ binh vòng lại đây cắt đứt đường lui của quân ta, khi đó, trái lại là quân ta hai mặt thụ địch.”
Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, đưa mắt thận trọng nhìn sa bàn, lại ngưng thần suy nghĩ.
A Mạch lại nói tiếp: “Còn nữa, theo binh pháp, khi bộ binh cùng thiết kỵ thát tử đối trận thì rất ít khi giành được thắng lợi, điều đó rất dễ khiến quân sĩ của ta nảy sinh tâm lý sợ hãi, khi còn giữ thế phòng thủ thì không sao, nhưng một khi chuyển sang thế tấn công lại thành họa lớn.”
Từ Tĩnh vuốt râu gật đầu, rất tán thành với ý kiến của A Mạch, nhưng nếu muốn tìm bộ binh áp chế trực diện thiết kỵ của thát tử lại vô cùng khó khăn. Nam Hạ thiếu chiến mã, căn bản không thể lập thành một lực lượng lớn để có thể cùng thiết kỵ thát tử đối đầu trực diện. Mà trận địa bộ binh nếu bị kỵ binh đánh sâu vào sẽ rất dễ mất trận, cho nên về cơ bản là không thể cùng kỵ binh dã chiến, nhất định phải dựa vào công sự phòng ngự hoặc là thành trì để cùng kỵ binh đối kháng.
A Mạch suy nghĩ một lát, nói: “Trừ phi ở thành đông chúng ta không chỉ dụ binh mà còn có thể có cùng Thường Ngọc Thanh trực tiếp ganh đua thực lực!” Nói đến đây, một luồng suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu A Mạch, nàng đưa mắt nhìn Từ Tĩnh, ngữ khí đột nhiên thay đổi, đè nén một tia hưng phấn hỏi: “Tiên sinh, nếu đã đánh cược, chúng ta có thể đánh cược lớn hơn một chút được không?”
Từ Tĩnh nghe xong khẽ rùng mình, hỏi: “Đánh cược như thế nào?”
A Mạch đáp: “Ta đã từng xem qua đâu đó một loại chiến pháp, thật ra có thể khắc chế kỵ binh thát tử, chỉ có điều chưa từng nghe qua có người sử dụng bao giờ, lần này chúng ta thử nghiệm một lần xem sao. Nếu thắng, quân Giang Bắc sẽ thuận thế đông tiến, chiếm cứ Ký, Lỗ, lập uy tứ quốc, ở Giang Bắc cùng thát tử phân tranh.”
Đôi mắt nhỏ của Từ Tĩnh chớp chớp, hỏi: “Nếu bại thì sao?”
A Mạch cười cười: “Nếu bại, chúng ta rút rui vào khe núi Phi Long cũng chưa muộn.”
Một chiến pháp mới, không biết uy lực lớn đến đâu, nhưng nếu chưa từng được thực nghiệm qua chiến đấu, kết quả cuối cùng vẫn rất khó liệu. Trong lòng Từ Tĩnh có chút nghi ngờ, trầm ngâm một lát sau mới hỏi: “Chiến pháp gì?”
————————-
Chú thích:
1- du thuyết: thời xưa gọi các chính khách đi đến các nước khác thuyết khách là du thuyết, dựa vào tài ăn nói của mình thuyết phục vua các nước áp dụng chủ trương của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét