5 thg 8, 2014

A Mạch tòng quân - Chương 117-118

ĐẠI CHIẾN (HẠ)
Sắc mặt Bắc Mạc đại tướng quân Thường Ngọc Thanh xanh mét nhưng vẫn trấn định như trước, mặc dù xa trận có thể ngăn cản kỵ binh, nhưng đối với bộ binh lại không thể. Thường Ngọc Thanh quả quyết ra mệnh lệnh cho kỵ binh xuống ngựa, ý đồ lấy bộ binh tấn công, phá vỡ xa trận của quân Giang Bắc. Đồng thời, phái người phi ngựa truyền lệnh cho tiên phong Bắc Mạc Phó Duyệt đang chặn ở khe núi Phi Long từ phía sau tấn công vào trận địa của quân Giang Bắc.

Kỵ binh Bắc Mạc biến thành bộ binh, song rất nhanh có người liền kinh hãi phát hiện ra những tấm bình phong của xa trận lại có thể cử động được hai cánh ra trước sau, giống như cánh cửa, cho phép bộ binh có thể ra vào. Không đợi cho “Bộ binh” Bắc Mạc kịp cao hứng, những “Tiểu ban sát thủ” vẫn ẩn giấu sau xa trận của quân Giang Bắc đột nhiên theo cánh cửa nhảy vọt ra. Thì ra người ta dùng cánh cửa kia để che dấu người cùng một nhà…

Sau khi vô số “Bộ binh” Bắc Mạc hy sinh, quân Bắc Mạc cuối cùng cũng vượt qua kỵ binh, phá tan phòng tuyến “Sát thủ”, đi tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, nhưng chuyện khiến cho người ta phiền muộn đến hộc máu lại xảy ra, trận địa bộ binh hàng ngũ vốn rất chỉnh tề lại bắt đầu phân tán, lúc hợp thành thì chẳng có bao nhiêu tiểu đội, nhưng giờ lại bung ra đón đánh sự tấn công của kỵ binh Bắc Mạc.

Kỵ binh Bắc Mạc trong lòng rất buồn bực, sao bỗng nhiên lại thay đổi thế này? Sao lại xòe ra thành thế trận hình sao?

Thế trận hình sao, phân hợp bất thường, nghe thấy tiếng trống thì tụ, nghe thấy tiếng chuông thì tan. Khi kỵ binh tới thì tiếng chuông vang lên, một quân chia làm hơn mười cụm; tùy theo kỵ binh mà tách ra, nghe theo tiếng trống mà tụ lại. Nói trắng ra chính là khi kỵ binh vọt tới thì không trực tiếp đối đầu, chỉ cố hết sức tránh đi, khi kỵ binh chuyển hướng hoặc giảm tốc độ, thì bộ binh lại quây lại, tạo thành một thể hỗn độn giữa địch và ta.

Thật ra đấu pháp này rất vô lại, mang dáng dấp của bọn lưu manh đường phố, không cùng ngươi khác chạm trán chính diện mà là lũ lượt ùa lên, điểm chú trọng chính là trong địch có ta, trong ta có địch. Thì ngươi cứ đánh đi, dù sao mọi người đều lẫn lộn cùng một chỗ, nói không chừng khi đao, tên xuất ra thì kẻ phải nhận lấy có khi lại chính là người cùng một nhà với ngươi, nhưng nếu ngươi không đánh, lại càng tốt, đao, tên của địch quân nhất định sẽ chiếu cố thật tốt đến ngươi.

Bởi vì sợ sẽ ngộ thương người cùng một nhà, nên kỵ binh không dám tự do rong ruổi, vì thế mà lực tấn công cũng giảm mạnh, hơn nữa, nếu cứ như vậy, đừng nói là kỵ binh bị đánh bại mà ngay cả chạy cũng không thể chạy thoát. Tuy là vậy, nhưng để vận dụng được trận thế này lại rất khó.

Đầu tiên, làm lưu manh cũng là cần phải có dũng khí rất lớn! Vậy đây chính là lưu manh sao, à, không phải, đây chính là những bộ binh không sợ chết, bằng không trái phải bốn bề đều có kỵ binh của địch, dám chắc sẽ sợ tới mức chạy trốn khắp nơi, chỉ cần bộ binh chạy trốn, kỵ binh liền đuổi theo chém giết, dễ dàng chẳng khác gì cắt lúa mạch.

Thứ hai, sức chiến đấu của từng binh sĩ bộ binh và tiểu đội nhất định phải mạnh mẽ, ưu việt hơn đối phương, bởi vì bộ binh nếu không phối hợp chặt chẽ, nếu sức chiến đấu của bản thân mình còn không mạnh, thì chính là từ tìm cái chết, ví dụ như từng dùng qua thế trận này là Bắc phủ và Nhạc gia, đây đều là những thế hệ tinh binh hiếm thấy.

Nhưng ngay cả như vậy, cái gọi là “Trận địa như hình sao, huyết chiến không trở về”, một khi được sử dụng, có nghĩa là một trận huyết chiến vô cùng khốc liệt sắp bắt đầu.

Nhưng kỵ binh Bắc Mạc vẫn chưa thấy sợ hãi, chảy trong cơ thể họ là một bầu máu nóng thiện chiến nên bọn họ không sợ huyết chiến, bọn họ chỉ sợ đám mọi rợ Nam Hạ yếu đuối không dám ứng chiến. Vì thế, kỵ binh Bắc Mạc chỉ nở nụ cười, tay vung loan đao tiếp tục tiến về phía trước. Đáng tiếc, bọn họ rất nhanh liền phát hiện mình lại sai lầm rồi.

Những tiểu đội khoảng hơn mười người được phân tán ra của quân Giang Bắc rất kỳ quái, vũ khí lại có đủ loại dài ngắn khác nhau. Phía trước là những tấm thuẫn yểm hộ cho đội ngũ phía trước, tay cầm khiên mây phủ phục xuống đất, chuyên dùng để cản trở vó ngựa của địch nhân, phía sau có hai binh sĩ tay cầm lang tiển dài hơn một trượng, tay cầm thuẫn yểm hộ cùng trường thương tiến lên tấn công. Tiếp theo là bốn binh sĩ tay cầm trường thương, mỗi bên hai người, chia nhau cầm thuẫn cùng lang tiển phối hợp chặt chẽ hai bên trái phải phía trước, tiếp sau đó còn sử dụng đoản đao và binh khí ngắn để ngừa địch nhân vòng lại tấn công.

Loại trận pháp này, dùng việc phân công tác chiến của các binh lính trong tiểu đội để bù lại nhược điểm của từng binh sĩ khi giao chiến.

Điều khủng khiếp nhất còn ở phía sau, theo tiết tấu trống trận mà quân Giang Bắc biến hóa, vốn dĩ mỗi tiểu đội có mười một người nhưng giờ lại bắt đầu chia nhỏ ra, trở thành hai người, ba người một hàng ngũ nhỏ hơn…

Trận tuy nhỏ, nhưng lực sát thương lại vẫn khủng khiếp như trước!

Trải qua trăm đắng nghìn cay, tốc độ của kỵ binh cùng ưu thế xung lượng đã sớm biến mất hầu như không còn, loan đao chém xuống lập tức bị thuẫn chặn lại, người ngồi trên ngựa còn chưa kịp phản ứng, thì sau tấm thuẫn lại đột nhiên xuất hiện trường thương đâm tới, lập tức đẩy kỵ sĩ rơi xuống, ngay sau đó, không biết cương đao lại từ đâu xuất hiện… Mất mạng, thì ra lại là một chuyện đơn giản như vậy.

Thường Ngọc Tông chém giết khiến trong mắt biến thành một mảnh màu đỏ tươi, lại vẫn không ngăn được tình thế thảm bại. Cánh quân của Phó Duyệt tấn công quân Giang Bắc giờ này vẫn chưa thấy động tĩnh. Trương Sinh cùng hai ngàn kỵ binh, thần không biết quỷ không hay, đột nhiên lại xuất hiện phía sau đại quân Bắc Mạc, ba vạn thiết kỵ Bắc Mạc cuối cùng cũng bắt đầu tan rã.

Một trận kéo dài đến tận khi trời chạng vạng, trên chiến trường đã là một quang cảnh bừa bãi, hỗn độn. Có chiến xa của quân Giang Bắc trúng hỏa tiễn Bắc Mạc bốc cháy, khói đen đạc quánh bay lên đến tận trời. Nhưng càng nhiều hơn nữa là thi thể của kỵ binh Bắc Mạc, máu của người và của ngựa hòa lẫn vào nhau, khiến mặt đất vừa mới xanh tươi trở lại sau mùa đông lại bị nhuộm thành một màu hồng nhợt nhạt.

Thường Ngọc Thanh đem theo tàn quân Bắc Mạc rút lui đến miếu Trình gia cách phía nam thành Thanh Châu mấy chục dặm mới dừng lại, khi truyền lệnh chỉnh đốn lại các bộ phận mới phát hiện tiên phong Thường Ngọc Tông vẫn chưa theo kịp. Những tướng lãnh bên cạnh Thường Ngọc Thanh không ít người xuất thân từ Thường phủ, đều thân thuộc với Thường Ngọc Tông, thấy vậy, trong mắt không khỏi đều có chút đỏ lên, bọn họ hướng về phía Thường Ngọc Thanh năn nỉ: “Đại tướng quân, chúng ta quay lại cứu Thập Nhất Lang đi!”

Thường Ngọc Thanh sắc mặt lạnh lùng, khóe môi khắc nghiệt không chút huyết sắc, im lặng nhìn mọi người một lát, lạnh giọng hạ lệnh cho phó tướng Phùng Nghĩa: “Chỉnh đốn lại tàn quân, tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, đợi sáng sớm ngày mai đánh lén đại doanh quân Giang Bắc.”

Mọi người nghe vậy đều sửng sốt, ngay lập tức có tướng sĩ truy vấn: “Vậy còn Thập Nhất Lang thì làm sao bây giờ?”

Thường Ngọc Thanh lạnh lùng đưa mắt nhìn người nọ, không để ý đến, tiếp tục căn dặn Phùng Nghĩa: “Quân Giang Bắc nhất định sẽ muốn thu dọn chiến trường, tối nay chắc chắn sẽ không thể quay về thành Thanh Châu, nên sẽ hạ trại ở ngoài khe núi Phi Long. Bọn họ vừa mới thắng trận khó tránh khỏi nảy sinh kiêu ngạo, bảo vệ doanh trại sẽ không quá nghiêm ngặt. Lát nữa ngươi dẫn quân ra vẻ chạy về phía tây, vượt qua núi Thúy Bình thì lấy ra một ngàn quân tinh nhuệ ẩn dấu tại đó, còn lại vẫn tiếp tục chạy về phía tây. Một ngàn quân tinh nhuệ này đợi đến giờ sửu thì xuất binh, vòng trở lại phía đông nam doanh trại của đại quân Giang Bắc thừa dịp đêm tối tập kích doanh trại…”

Phó tướng Phùng Nghĩa thấy Thường Ngọc Thanh giao nhiệm vụ rõ ràng như thế, trong lòng vừa sợ vừa nghi, không khỏi lên tiếng hỏi: “Đại tướng quân! Ngài đây là?”

Thường Ngọc Thanh như trước nghiêm mặt, trầm giọng hỏi: “Ngươi nghe không hiểu được sao?”

Phùng Nghĩa đành phải gật đầu: “Mạt tướng hiểu, chỉ có điều…”

“Không chỉ có điều gì hết!” Thường Ngọc Thanh lạnh giọng cắt ngang lời Phùng Nghĩa, cầm trường thương sải bước đến bên Dạ Chiếu Bạch, lại xoay người dặn anh ta: “Ta quay lại cứu Ngọc Tông, nếu thành công thì sẽ đi về phía tây bắc, thay ngươi thu hút sự chú ý của quân Giang Bắc. Phó Duyệt vẫn không có hồi âm, sợ là đã dữ nhiều lành ít. Nếu ngươi tập kích doanh trại thất bại, không cần tiếp tục suy tính nhiều, lập tức dẫn đại quân lui về Võ An, phòng thủ vững chắc đợi viện quân! Nhớ kỹ, nhất thiết không được tấn công thành Thanh Châu!”

Thường Ngọc Thanh nói xong liền giục ngựa muốn đi, Phùng Nghĩa bước lên phía trước đưa hai tay ra ngăn trước ngựa của Thường Ngọc Thanh, gấp giọng khuyên nhủ: “Đại tướng quân! Ngài không thể đi, ta sẽ đi cứu Thập Nhất Lang, ngài là chỉ huy cao nhất của đại quân, không có ngài lòng quân sẽ bất ổn, ngài tuyệt đối không thể đưa mình vào chỗ hiểm!”

Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nói: “Nếu ta không đi, Mạch Tuệ sao có thể tin đại quân Bắc Mạc của ta đã tan tác trốn về hướng tây?” Nói xong lạnh giọng quát một tiếng: “Tránh ra!”

Phùng Nghĩa không nhúc nhích chút nào, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng, giục ngựa lui về phía sau vài bước, đột nhiên phi về phía trước, Dạ Chiếu Bạch vươn người nhảy lên, bay vọt qua đầu Phùng Nghĩa, nhanh như chớp phi về hướng bắc. Thân vệ của Thường Ngọc Thanh sợ lạc mất anh ta, đều vội vàng lên ngựa đuổi sát theo phía sau, một hàng mấy chục kỵ mã nhằm thẳng về phía khe núi Phi Long.

Trước khe núi Phi Long, quan quân nhu quân Giang Bắc Lý Thiếu Hướng vốn mai danh ẩn tích trong suốt thời gian diễn ra trận chiến rốt cuộc lại bắt đầu trở nên sinh động, còn may mắn còn tồn tại chiến mã, loan đao sắc bén của quân Bắc Mạc… Sắc trời bắt đầu tối, ánh mắt Lý Thiếu Hướng lại như thể tỏa ra ánh kim quang, vung hai cánh tay chỉ huy binh lính doanh trại quân nhu thu nhặt chiến lợi phẩm trên chiến trường, la hét đến khàn cả giọng, nước miếng văng khắp nơi.

Trong quân Giang Bắc có quy định, sau khi kết thúc trận đánh, kỵ binh cùng bộ binh chủ lực phải nhanh chóng chỉnh đốn lại hàng ngũ để ngừa địch quân tấn công trở lại, việc thu dọn chiến trường sẽ do binh lính của doanh trại quân nhu phụ trách. Vì trận đánh hôm nay thắng rất oanh liệt, thiết kỵ Bắc Mạc lại được trang bị tốt nhất trong đại quân Bắc Mạc, cho nên Lý Thiếu Hướng nhất thời cảm thấy nhân số trong doanh mình không đủ dùng.

Lý Thiếu Hướng suy nghĩ, rồi nhấc chân chạy tới doanh trại bộ binh ở sườn tây chiến trường, tìm thống lĩnh bộ binh Vương Thất, nói thẳng vào vấn đề: “Ngươi cho ta mượn một doanh để dùng, ta muốn thu gom chiến mã bị chết của thát tử đem về, dùng da ngựa làm ủng cho các ngươi.”

Vương Thất không chịu cho mượn người, từ chối nói: “Giày ủng chỉ dùng cho kỵ binh, bộ binh doanh của ta không cần cái này, ngươi đi tìm Trương Sinh mà mượn người.”

Lý Thiếu Hướng không chịu từ bỏ hy vọng, híp mắt nháy nháy vài cái rồi lại du thuyết: “Ngươi chẳng phải còn có đội thám báo nữa sao? Cũng phải dùng mà!”

Vương Thất nghe xong bất giác có chút động tâm, nghĩ nghĩ một lát liền đồng ý, kêu một viên tướng thủ hạ đem theo một doanh thắp đuốc theo Lý Thiếu Hướng đi thu dọn chiến trường. Khi A Mạch mang theo Lâm Mẫn Thận, Trương Sĩ Cường phi ngựa từ xa tới, bộ binh doanh vừa mới bị Lý Thiếu Hướng một lần nữa mang về đến chiến trường. A Mạch thấy vẫn có binh lính chủ lực của bộ binh doanh ở lại trên chiến trường thì bất giác có chút kinh ngạc, quay đầu phân phó thân binh bên cạnh đến hỏi xem xảy ra chuyện gì, một lát sau, Lý Thiếu Hướng cùng thân binh kia đã trở lại, đến trước ngựa A Mạch cười hì hì nói: “Là ta mượn binh từ chỗ Vương Thất, hôm nay thát tử bỏ lại không ít đồ tốt, nếu không lấy thì thật sự rất đáng tiếc!”

A Mạch nghe xong tức giận đến nỗi mày kiếm dựng ngược, cố gắng nén nỗi tức giận lại trong lòng, lại lệnh cho thân binh đi truyền Vương Thất đến. Sau một lúc lâu, Vương Thất cưỡi ngựa đi đến, từ xa đã kêu lên rất lớn: “Đại nhân, có chuyện gì vậy?”

A Mạch mặt âm trầm, giục ngựa tiến lên vung tay quất cho Vương Thất một roi. Không nói đến Vương Thất nhất thời bị A Mạch đánh mà hóa ngây ngốc, ngay cả mọi người bên cạnh A Mạch cũng có chút sửng sốt. A Mạch mặc dù đã là chủ tướng quân Giang Bắc, nhưng đối nhân xử thế vẫn rất hiền hoà lễ độ, chưa bao giờ thấy nàng tức giận đến như thế, chứ đừng nói là vung roi với một tướng lĩnh cao cấp trong quân.

A Mạch cả giận nói: “Hiện giờ là lúc nào! Ngươi không tăng cường bảo vệ doanh trại, lại gọi người đến thu dọn chiến trường, ngươi chán sống rồi chắc?”


SINH MỆNH

Vương Thất cúi đầu im lặng, trên mặt Lý Thiếu Hướng có chút ngượng ngùng, anh ta biết A Mạch vì nể mình đã từng làm đội trưởng của nàng, bận tâm đến thể diện của anh ta nên mới trút cơn giận lên đầu Vương Thất. Lý Thiếu Hướng do dự một chút rồi nói: “Đại nhân, là lỗi của mạt tướng.”

A Mạch lạnh lùng liếc xéo anh ta một cái rồi nói tiếp: “Ta chưa nói đến ngươi, ngươi chỉ biết nghĩ đến những thứ vật dụng linh tinh! Nhưng nếu đến tính mạng cũng không còn thì những thứ vớ vẩn ấy còn dùng làm cái rắm gì!”

Lý Thiếu Hướng liên tục gật đầu vâng dạ, Vương Thất vẫn buồn bực không nói gì, hiển nhiên trong lòng có chút không phục. Lí Thiếu Hướng vội vàng kéo Vương Thất rồi nói với A Mạch: “Chúng ta về tăng cường phòng thủ doanh trại.”

A Mạch liếc Vương Thất một cái, lạnh giọng nói: “Nói với Hắc Diện dùng xe bảo vệ doanh, tăng cường ngoại tham(1) và ngoại phụ(2), đề phòng thát tử tập kích doanh trại!”

Vương Thất rầu rĩ đáp lại rồi xoay người định đi, bỗng cách đó không xa, đột nhiên truyền đến tiếng kinh hô của một binh sĩ trong doanh. Đám người A Mạch nghe vậy đều quay lại nhìn, chỉ thấy trong ánh lửa bập bùng, mấy binh sĩ quân Giang Bắc tay cầm thương đều nhất tề nhằm thẳng vào một thứ gì đó, có một tên lính quay đầu về phía Vương Thất hô: “Vương tướng quân! Bên này có một con cá lớn!”

Vương Thất nhìn A Mạch, rồi xoay người bước nhanh về hướng đó, khi đi đến gần mới nhìn rõ bọn lính đang dùng thương chĩa vào một thát tử bị thương ngã xuống đất. Chỉ thấy trên người tên thát tử này có rất nhiều vết thương, áo giáp đầy máu, một chân vặn vẹo theo một góc rất quái dị, dường như đã bị gãy. Vương Thất cầm đuốc từ tay một tên lính bên cạnh thận trọng soi, thấy người này cùng lắm chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, sắc mặt có chút sạm lại, mặt mày vốn trong sáng nhưng lúc này vì căm giận mà có chút khó coi, đang cau mày quắc mắt nhìn mình trừng trừng… Trông có chút quen mắt, dường như rất giống với dáng vẻ của Thường Ngọc Thanh ngày ấy ở dưới thành Thanh Châu cưỡi ngựa, cầm thương ngang người.

Trong lòng Vương Thất đột nhiên bừng tỉnh, nhất thời vừa mừng vừa sợ, nhịn không được lớn tiếng kêu lên: “Đại nhân! Chúng ta đúng thật là đã tóm được một con cá lớn!” Vương Thất quay về phía A Mạch hưng phấn kêu lên: “Đại nhân, ngài mau tới đây xem! Là Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh! Chúng ta đã bắt được Thường Ngọc Thanh!”

Bên kia, A Mạch nghe thấy vậy thì sửng sốt, bên này, tên thát tử kia đã nhổ mạnh một búng máu về hướng Vương Thất, khàn giọng mắng: “Hừ! Đồ tiểu nhân ngạo mạn mơ tưởng hão huyền, đại tướng quân của chúng ta sao có thể rơi vào tay lũ trộm cắp các ngươi! Sớm muộn gì ngài ấy cũng tiêu diệt sạch sẽ các ngươi, đem lũ người bọn ngươi treo hết lên công thành Thanh Châu!”

Binh sĩ quân Giang Bắc thấy vậy liền nâng trường thương lên định đâm xuống, lại bị Vương Thất đưa tay ngăn lại. Vương Thất không chút hoang mang lau vết bẩn thấm trên góc áo, lúc này mới giương mắt nhìn về phía thát tử kia, nhấc chân đá vào vết thương trên chân anh ta, dữ tợn mắng: “Xem ai treo ai lên cửa thành trước, lát nữa lão tử liền đem ngươi đưa treo lên đó!”

“Vương Thất! Dừng lại!” A Mạch giục ngựa đến ngăn Vương Thất, cúi đầu nhìn về phía người nọ, thấy mặt mũi anh ta quả nhiên có vài phần tương tự với Thường Ngọc Thanh. A Mạch lại đưa mắt nhìn áo giáp được chế tạo bằng thép rất tinh xảo trên người anh ta, sau đó nói: “Anh ta không phải là Thường Ngọc Thanh, chắc là Thường Ngọc Tông.”

“Thường Ngọc Tông?” Vương Thất sửng sốt, quét mắt nhìn người nọ, quay đầu lại hỏi A Mạch: “Chính là Thường Ngọc Tông bị chúng ta tiêu diệt ba vạn tinh kỵ binh ở Bạch Cốt Hạp?”

A Mạch gật đầu.

Vương Thất không khỏi vừa cười vừa nói: “Khó trách nhìn lại thấy quen mắt đến vậy, hóa ra là người quen cũ thật.” Nói xong, liền ngồi xổm xuống bên cạnh, cười hỏi Thường Ngọc Tông: “Này? Ngươi đã từng thất bại trong tay chúng ta một lần rồi, sao lại nhanh quên nhau thế?”

Mọi người trong quân Giang Bắc nghe xong đều cười ầm lên, Thường Ngọc Tông tức giận đến đỏ bừng sắc mặt, lớn tiếng kêu lên: “Muốn giết thì giết đi, đừng làm mấy cái trò như đàn bà ấy nữa!”

Anh ta gào thét như vậy lại càng khiến cho quân Giang Bắc cười lớn hơn, ngay cả khóe miệng A Mạch cũng không khỏi lộ ra ý cười, dặn dò Vương Thất: “Tìm thầy lang khám cho anh ta, cẩn thận một chút, đừng giết chết.”

“Ta biết.” Vương Thất sảng khoái đáp, cười hì hì quay đầu nhìn A Mạch, nhanh chóng quên mất chuyện bị quất một roi vừa rồi.

Có tên lính liên lạc chạy lại bẩm báo A Mạch tình hình chiến đấu chỗ Mạc Hải. Trước trận đánh, tiên phong Bắc Mạc Phó Duyệt dẫn theo ba ngàn kỵ binh đi đón đánh, chặn đường rút lui của quân Giang Bắc ở hướng đông, không ngờ A Mạch sớm đã có chuẩn bị, lệnh cho Hữu phó tướng quân Mạc Hải phục kích ở đó, vừa đúng lúc đối đầu với Phó Duyệt. Phó Duyệt bị mất tiên cơ liền rơi vào tình thế bất lợi đành phải mang binh chạy về hướng bắc. Mạc Hải đem quân đuổi theo đến bờ sông Tử Nha, Phó Duyệt sau khi vượt sông liền chạy dọc theo bờ sông theo hướng tây, Mạc Hải một mặt đuổi theo đến bờ bên kia, một mặt phái người quay về báo cáo với A Mạch.

A Mạch cân nhắc một lát, lệnh cho tên lính liên lạc kia đi trước nói với Mạc Hải theo dõi chặt chẽ động tĩnh của Phó Duyệt, còn tự mình xoay người đi tìm Từ Tĩnh. A Mạch vừa giục ngựa đi chưa xa, chợt nghe thấy tiếng trống cảnh báo từ xa xa truyền đến, tiếng trống dồn dập vừa mới vang lên liền im bặt, hiển nhiên là người đánh trống đã bị giết người diệt khẩu.

Lúc này, là ai quay lại?

Trong bóng đêm, chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa dòn dập từ xa truyền đến, cho đến khi tiếng kinh hô dừng lại. A Mạch vẫn chưa phản ứng gì, Lâm Mẫn Thận đã giục ngựa lên phía trước vài bước chắn trước ngựa của A Mạch. Cùng với tiếng vang của binh khí va chạm vào nhau, một chiến mã màu trắng từ trong bóng đêm phi hết tốc lực đến, phía trên là một kỵ sĩ mặc áo giáp đen, tay cầm trường thương, đúng là đại tướng quân Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh!

Thì ra Thường Ngọc Thanh vẫn không tìm thấy Thường Ngọc Tông, liền hướng về phía ánh lửa chạy vội tới, một đường xông tới không biết đã dùng thương đâm biết bao nhiêu binh sĩ quân Giang Bắc tiến lên ngăn, lớn tiếng gọi: “Thập Nhất Lang! Thập Nhất Lang!”

Bên này, Vương Thất đang nâng Thường Ngọc Tông bị thương nặng định đi, nhìn thấy tình cảnh này nhất thời ngây ngẩn cả người. Thường Ngọc Tông nghe thấy có người gọi mình, liền vật lộn ngồi dậy, hướng về phía Thường Ngọc Thanh hô: “Thất ca! Ta ở đây!”

Thường Ngọc Thanh nghe tiếng gọi vọng lại, khi thấy rõ đó là Thường Ngọc Tông, trong lòng không khỏi mừng rỡ, liền thúc ngựa chạy vọt về hướng Thường Ngọc Tông. Thường Ngọc Tông thấy vậy bỗng nhiên chống lại, một phen đẩy tên lính bên cạnh đang kiềm chế anh ta ra, kéo cái chân bị thương chân lê về phía Thường Ngọc Thanh., Vương Thất đang trố mắt ra nhìn lập tức bừng tỉnh, không chút nghĩ ngợi, liền vung đao chém về phía Thường Ngọc Tông, đại đao vừa lúc chém trúng lưng Thường Ngọc Tông, một tiếng “Thất ca” trong miệng Thường Ngọc Tông còn chưa kịp kêu lên, thân thể đã đổ nhào xuống. Lúc này, Thường Ngọc Thanh đã phóng ngựa đến gần Thường Ngọc Tông, mắt thấy cảnh ấy, hai con ngươi thu lại, sát khí bùng lên, quát một tiếng chói tai, trường thương trong tay như du long xuất đầu, đâm thẳng vào ngựa Vương Thất.

A Mạch nhìn thấy từ xa, trong lòng cứng lại, thất thanh kêu lên: “Vương Thất! Chạy mau!”

Vương Thất theo bản năng vung đao lên đỡ, nhưng trường đao trong tay còn chưa thu được về đến trước ngực, thì đã cảm thấy mũi thương lạnh buốt xuyên qua lớp áo giáp, đâm thấu qua ngực. Vương Thất nhất thời sửng sốt, có chút không tin, cúi đầu nhìn trường thương trước ngực, dường như anh ta không cảm thấy đau, chẳng lẽ đây là thân thể của mình sao?

Thường Ngọc Thanh rút mạnh trường thương, thân thể Vương Thất không khỏi cũng theo lực đó mà bước về trước một bước, máu vọt ra.

“Vương Thất!” A Mạch lớn tiếng hô, không màng đến bất cứ cái gì, phóng ngựa vọt đi.

Thân vệ sợ nàng xảy ra sơ xuất, vội vàng quất ngựa đuổi theo. Ngựa của Lâm Mẫn Thận còn chưa tới, người đã từ trên yên ngựa đã bay lên, lướt lên trước A Mạch, trường kiếm trong tay biến hóa liên tục thành mấy chiêu thức nhằm thẳng vào những chỗ yếu hại trên người Thường Ngọc Thanh.

Thường Ngọc Thanh lập tức xoay lưng lại, múa trường thương nhất nhất hóa giải từng chiêu kiếm, rồi dùng trường thương đẩy Lâm Mẫn Thận lui từng bước, nhân đó cúi người nhắc Thường Ngọc Tông lên, lại vung thương ra bốn phía ngăn chặn sự tấn công quân Giang Bắc rồi phóng ngựa phá vòng vây chạy về hướng tây bắc.

Chư tướng quân Giang Bắc phân ra một ít người đuổi theo Thường Ngọc Thanh, còn lại vội vàng xuống ngựa chạy đến bên cạnh Vương Thất. A Mạch sớm đã ngã nhào xuống, đỡ Vương Thất lên, lấy tay giữ chặt miệng vết thương trên ngực anh ta, quay đầu khàn giọng quát: “Đi gọi thầy lang, nhanh đi gọi thầy lang!”

Bên cạnh có người lên tiếng đáp lời, Lâm Mẫn Thận chạy lại, đề khí vận chỉ, điểm vội mấy đại huyệt trên người Vương Thất. A Mạch đưa mắt mong mỏi nhìn Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận khẽ lắc đầu. Một thương của Thường Ngọc Thanh đâm xuyên qua ngực, vết thương lại là chỗ yếu hại, sao có thể cầm máu được?

Vương Thất lúc này mới cảm thấy sự đau đớn từ vết thương, run rẩy hỏi A Mạch: “Đại nhân, ta sẽ chết đúng không?”

“Nói bậy!” A Mạch phẫn nộ quát,“Chết cái rắm! Đâu có ai chưa từng bị trúng qua vài đao.”

Vương Thất nhìn chung quanh một vòng, thấy trên mặt mọi người đều khó nén khỏi nét bi phẫn, trong lòng anh ta liền hiểu, đưa mắt nhìn A Mạch, run giọng nói: “A Mạch, ta có vài điều muốn nói với ngươi.”

A Mạch cố gắng kiềm chế cảm giác tắc nghẹn trong cổ họng, mắng: “Sao lại nói nhiều lời vô nghĩa như vậy, ngươi cố gắng nghỉ một lát đi, thầy lang đến bây giờ, cầm máu cho ngươi thì sẽ ổn thôi.”

Lâm Mẫn Thận đứng dậy, cùng mọi người yên lặng tránh sang một bên.

Vương Thất cố gắng chịu đựng cơn đau trên ngực nói: “A Mạch, huynh đệ trong ngũ chúng ta có thể có được ngày hôm nay, không khỏi nhờ vào hào quang của ngươi.”

A Mạch mắng: “Bậy bạ!”

Vương Thất không không để ý tới lời lẽ thô lỗ của A Mạch, chỉ tiếp tục nói: “Nhưng các huynh đệ cũng chưa từng bỏ mặc ngươi, các huynh đệ sợ bị người khác mắng là một người làm quan cả họ được nhờ, cho nên mỗi lần đánh giặc đều liều mạng… Các huynh đệ… chưa từng bỏ mặc ngươi.”

A Mạch cố gắng nhẫn nhịn nỗi bi thống trong lòng, cứng cỏi đáp: “Những điều này ta đều biết.”

Sắc mặt Vương Thất đã trắng bệch, dần dần chuyển sang tái nhợt. Hơi thở của anh ta yếu dần, lại bắt đầu ho khan, miệng ói ra một ngụm máu lớn, lúc này mới khàn khàn giọng trong cổ họng, gắng gượng nói: “A Mạch, khi ngươi còn ở trong ngũ đã từng nói, nếu ai chết trước, cha mẹ của người đó chính là cha mẹ của tất cả mọi người.”

A Mạch cố sức gật đầu: “Ta vẫn nhớ!”

Vương Thất cố mỉm cười, hơi thỏ yếu ớt, cố gắng nói: “Ngũ trưởng là người Võ An, trong nhà có mẹ già, mỗi tháng chỉ cần một vài lượng bạc là đủ… Lão Hoàng là cẩm quan nhân, cha mẹ đã có huynh đệ chăm sóc, nương tử còn phải nuôi một khuê nữ, anh ta từng nói nếu nương tử muốn đi thêm bước nữa thì tùy nàng… Nếu nguyện ý ở vậy… thì sẽ nuôi nấng mẹ con nàng đến khi trăm tuổi.”

Cổ họng A Mạch đã nghẹn lại không thể nói nên lời, chỉ có thể gắng sức gật đầu.

“Ta là người trong gia trang của Thuận Bình Vương, trong nhà chỉ có ta là người con duy nhất, cha ta sợ ta ra bên ngoài bị người khác bắt nạt, cho nên đặt tên ta là Vương Thất, nói kẻ khác không biết, còn tưởng rằng phía trên ta có rất nhiều huynh đệ, sẽ không dám bắt nạt ta…” Thanh âm ngừng lại, Vương Thất thở hổn hển một hồi, miễn cưỡng lấy từ trong ngực tấm huy hiệu tướng quân bằng đồng, run rẩy đặt vào tay A Mạch, nói thêm: “Ta vẫn không chịu đổi tên, sợ cha mẹ ta không biết ta đã làm tướng quân, bọn họ chỉ biết gọi nhi tử là Vương Thất…”

Thanh âm của Vương Thất càng lúc càng nhỏ, khoảng cách giữa các từ càng lúc càng dài hơn. “A Mạch,” Vương Thất chuyển hướng nhìn A Mạch, ánh mắt đã bắt đầu mất đi thần khí, thanh âm tiếng được tiếng mất, không thể nghe rõ, A Mạch ghé tai sát vào miệng anh ta, mơ hồ nghe thấy: “Ngươi… nói dùm với bọn họ cho ta… Vương Thất đã được làm tướng quân, Vương Thất…”

Môi Vương Thất mấp máy mấy lần, cuối cùng thở dài một hơi, hoàn toàn không một tiếng động, đầu chậm rãi nghiêng sang một bên rồi đổ xuống, nặng trĩu trên cánh tay A Mạch, rất nặng, rất nặng…

Người này, khi nàng mới vào quân doanh đã từng đánh nhau với nàng một trận, sau đó cùng nàng bị phạt nhịn đói, vụng trộm chia nhau cùng ăn một chiếc bánh bao. Người này, đã cùng nàng chinh chiến trên ngàn dặm của dãy Ô Lan, rõ ràng đã đói đến lỏng cả thắt lưng, mà vẫn cười hì hì đem con thỏ vừa mới săn được ném cho nàng trước. Người này, ở trong quân luôn gọi thẳng nàng là A Mạch, chọc nàng phát cáu, nhưng trên chiến trường lại vung đao bảo vệ nàng. Người này, vừa mới điềm nhiên như không khi bị trúng của nàng một roi…

Trong lồng ngực của A Mạch trào lên một làn hơi nóng sôi trào, xông thẳng đến hốc mắt, hình như có gì đó từ trong mắt tràn ra, lăn xuống hai má.

Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh không ngừng lấy mu bàn tay lau nước mắt, khàn khàn cổ họng gọi A Mạch: “Ngũ trưởng, Vương Thất…… Anh ta đã chết rồi……”

A Mạch hung tợn quay đầu trừng mắt nhìn anh ta, lớn tiếng quát: “Khóc! Khóc cái gì! Không phải là đã chết hay sao? Ai mà không phải chết?”

——————

Chú thích:

1- Ngoại tham: Bố trí người canh gác bốn phía quanh doanh trong phạm vi 10 dặm, đề phòng cảnh giác, phòng ngừa có biến thì phải lập tức báo tin (chú thích của tác giả);

2- Ngoại phụ: Bố trí 3 đến 5 người 1 tổ, ban đêm “cho quân đi trước hoặc ẩn nấp hai bên sườn, cứ 3 đến 5 dặm lại bố trí một tổ ở những nơi hiểm yếu” mang theo trống trận, không chỉ phụ trách việc quan sát tình hình địch quân, mà còn nhận biết khi có địch “xâm phạm đại doanh”, thì có nhiệm vụ “khua trống thật lớn”, dùng để kích động tâm lý chiến đấu. (chú thích của tác giả)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét