Thương Dịch Chi vừa cúi đầu nhấp một ngụm rượu, nghe thấy vậy động tác liền hơi sững lại, một lát sau mới chậm rãi nuốt xuống, ngẩng đầu lên nhìn A Mạch: “Thịnh Đô không tốt sao?”
“Tốt,” A Mạch đáp, cẩn thận cân nhắc rồi nói tiếp: “Nhưng ta không thích.”
Thương Dịch Chi im lặng nhìn A Mạch một lúc rất lâu, nhìn cho đến khi lòng bàn tay của A Mạch toát mồ hôi, cuối cùng mới nhẹ nhàng cười, đặt chén rượu trong tay xuống, đáp: “Được, ta cho ngươi về.”
A Mạch nhếch môi cười, sau đó cung kính dùng hai tay nâng chiếc chén ngọc bích lên, trịnh trọng nói với Thương Dịch Chi: “Nguyên soái, Mạch Tuệ của thất doanh quân Giang Bắc kính ngươi!”
Trong mắt Thương Dịch Chi chợt có tia sáng lướt qua, đột nhiên đưa tay giữ lấy chén rượu trong tay A Mạch. A Mạch khó hiểu nhìn Thương Dịch Chi, Thương Dịch Chi chỉ nhếch khóe miệng gượng cười, nói: “Uống rượu không hợp với tính cách của ngươi”
A Mạch nhìn Thương Dịch Chi, rồi lại cúi đầu nhìn xuống, tay Thương Dịch Chi vẫn còn giữ lấy chén rượu, đầu ngón tay nhẹ nhàng chạm vào hổ khẩu(1) của nàng, ngón tay thon dài nổi bật lên vẻ ôn nhuận trên nền xanh biếc của chiếc chén ngọc, nhìn như thể tùy ý, lại giống như vô cùng kiên định.
Đang do dự, Thương Dịch Chi đã cầm lấy chén rượu của A Mạch để qua một bên.
“Trở về đi.” Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói, ánh mắt nhìn thẳng vào A Mạch,“Cứ chuẩn bị sẵn sàng, mấy ngày nữa là có thể quay lại đại quân Giang Bắc.”
A Mạch biết rất rõ trong lòng mình hiện giờ hẳn là mừng đến phát điên lên được, nhưng không hiểu sao, khi nhìn vào ánh mắt của Thương Dịch Chi, nàng lại không thể biểu hiện tâm trạng vui sướng ấy ra bên ngoài, chỉ chậm rãi cúi đầu, rồi đứng lên, vái chào Thương Dịch Chi, nói: “Đa tạ nguyên soái, A Mạch cáo lui.” Nói xong, lần đầu tiên không đợi Thương Dịch Chi lên tiếng trả lời, liền xoay người rời đi.
Di chuyển qua hành lang khúc khuỷu, chỉ qua một khúc quanh là có thể tránh được ánh mắt ở phía sau, trong lòng A Mạch âm thầm cảnh báo mình rằng không thể quay đầu lại, nhưng khi chân vừa bước đến chỗ rẽ, lại không tự chủ được mà dừng lại, ngừng một chút rồi quay người, cũng không nhìn Thương Dịch Chi, chỉ thu ống tay áo, trịnh trọng hướng về phía Thương Dịch Chi cúi người vái chào.
Nam Hạ, mùa thu, năm thứ ba theo lịch Thịnh Nguyên, Đường Thiệu Nghĩa lĩnh một vạn kỵ binh đánh lén Bào Mã Xuyên, nơi quân Bắc Mạc tích trữ lương thảo, chỉ một ngọn đuốc mà thiêu rụi hơn nửa năm lương thực của quân Bắc Mạc thành tro, lương thảo bị đốt cháy, ánh lửa bốc cao đến tận trời, ánh lửa soi rọi cả nửa thành Dự Châu, tiểu hoàng đế Bắc Mạc vội ném chén trà trong tay, ra lệnh cho kỵ binh Bắc Mạc hành quân suốt đêm, đuổi theo bao vây, chặn đường kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa. Từ Bào Mã Xuyên về đến địa phận của dãy núi Ô Lan, là hơn tám trăm dặm đường của máu và bụi, đến khi vào được trong núi Ô Lan, một vạn kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa đã thiệt hại quá nửa, nhưng vẫn không ngăn được Đường Thiệu Nghĩa trở thành một người anh hùng dân tộc của Nam Hạ.
Khi tin tức này đến Thịnh Đô thì đã là cuối tháng chín, triều đình Nam Hạ nhất thời xôn xao náo động, nghe nói nguyên soái Thương Dịch Chi của quân Giang Bắc đang ở Thịnh Đô lập tức dâng tấu thư, tiêu tiêu sái sái một bản tràng giang đại hải, ngôn từ khẳng khái mà dõng dạc, nói trắng ra là hành động quân sự lần này của Đường Thiệu Nghĩa tuy rằng do phó tướng Lý Trạch của quân Giang Bắc chỉ huy, nhưng cũng không nằm ngoài sự chỉ đạo của Thương Dịch Chi ta, vì muốn hoàn thành tốt cuộc chiến đấu chống lại thát tử Bắc Mạc, anh ta mạnh dạn yêu cầu được trở lại tuyến đầu trên chiến trường Giang Bắc.
Ai ngờ tấu thư này lại giống như đá chìm đáy biển.
Người sáng suốt đều nói triều đình một khi đã triệu hồi Thương Dịch Chi từ Giang Bắc trở về thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ muốn thả cho anh ta trở về, đáng tiếc cái gã Thương Dịch Chi này lại không thức thời, thấy tấu thư của mình bặt vô âm tín, lại cầu mẫu thân là Trưởng công chúa Thịnh Hoa tiến cung cầu xin cậu mình là hoàng đế đương triều.
Mùng sáu tháng mười, Trưởng công chúa một thân trang phục vào cung diện thánh, huynh muội hai người nói chuyện hồi lâu.
Mùng chín tháng mười, trong triều ban chiếu khen ngợi, thăng cho Đường Thiệu Nghĩa làm Kỵ Lang tướng quân, giữ vị trí Tả phó tướng quân Giang Bắc, thăng nguyên phó tướng quân Giang Bắc Lý Trạch làm Phiêu Kị tướng quân, đảm nhiệm chức vụ Hữu phó tướng quân Giang Bắc. Thương Dịch Chi thôi giữ chức vụ nguyên soái quân Giang Bắc, phong làm Vĩnh Xương Hầu. Vệ Hưng giữ chức Kiêu Kỵ Đô Úy, đảm nhiệm chức vụ Đại tướng quân, Tổng đốc chư lộ quân Giang Bắc.
Nghe nói khi tin này vừa ban ra, Thương tiểu Hầu gia thiếu chút nữa thì trở mặt ngay trên điện, nhưng sau đó trên khuôn mặt tuấn tú liền lộ rõ vẻ cố tỏ ra bình tĩnh, khi rời triều liền đi thẳng đến chỗ ở của Trưởng công chúa trong Hầu phủ, về phần mẫu tử trong lúc đó đã nói những gì thì người bên ngoài không thể nào biết được, chỉ có điều là Thương tiểu Hầu gia sau khi từ Lạc Hà Hiên đi ra, ban đêm liền tá túc ở ngoại thành Thịnh Đô trên sông Thanh Thủy giữa phấn hương ôn nhu. Thương tiểu Hầu gia giữa lúc như vậy lại vờn liễu hái hoa bên ngoài, đương nhiên khiến cho Trưởng công chúa nổi giận, song chẳng đợi cho Trưởng công chúa kịp có hành động gì , tiểu thiếp vốn được tiểu Hầu gia sủng ái đã không nhịn nổi cơn uất nghẹn này mà mang theo hai gia nô xông thẳng lên thuyền hoa trên sông Thanh Thủy, đúng lúc đám quan nhân ở Thịnh Đô đang cùng uống rượu bàn chuyện nhân sinh với Thương tiểu Hầu gia. Nếu vào lúc khác, tiểu Hầu gia vốn nổi tiếng phong lưu đa tình này tất nhiên sẽ không so đo cùng người tiểu thiếp, nhưng lúc này anh ta vừa trải qua một đả kích lớn trong đời người, trong lòng đang rất, rất phiền não, đâu thể nào dung thứ cho người tiểu thiếp này khóc lóc om sòm như thế, liền giận dữ vung tay cho tiểu thiếp một bạt tai. Ai ngờ người tiểu thiếp kia cũng là kẻ tính tình cương liệt, liền một mạch gieo mình xuống sông. Chỉ nghe “Ùm” một tiếng, tiểu Hầu gia cả kinh, lập tức tỉnh rượu, dù thế nào cũng là thiếp yêu của mình, bỏ làm sao được? Tiểu Hầu gia vội vàng gọi người xuống cứu, nhưng trong cảnh cảnh tối lửa tắt đèn, mặt sông vừa rộng lại vừa có gió, làm sao còn tìm thấy bóng người, mãi cho đến hừng đông ngày hôm sau, cũng không thể nào tìm thấy bóng dáng của người tiểu thiếp. Tiếc thay cho một thiếu nữ xinh đẹp, lại cứ như vậy trầm mình xuống đáy sông, người đời có lưu lại bài thơ làm chứng:
Thanh thủy liễm diễm thủy mang mang
Họa phảng nhật mộ đối kiều nương,
Khả liên hương khuê hoa liễu chất,
Hoan tình khuynh tẫn phó hoàng lương.
(Dòng sông Thanh Thủy nước mênh mang
Thuyền hoa đâu ngờ thành thuyền tang
Thương thay đóa sen nơi đáy nước
Một giấc hoàng lương đã vội tàn (2))
[ được rồi, tác giả thừa nhận nàng đùa ác thật!o[╯□╰]o]
Ngày mười hai tháng mười, Vệ Hưng từ Thịnh Đô bắt đầu khởi hành đi nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc. Vệ Hưng, người Giang Đông, ba mươi tuổi, không phải kiểu người cao ráo sáng sủa, mà chỉ là một người đàn ông có tướng mạo xấu xí, nguyên đứng đầu cấm vệ quân, là môn sinh của Lâm tể tướng, và tâm phúc của thiên tử.
Bên bờ Thanh Thủy, A Mạch một thân nhung trang, tư thế oai hùng, bừng bừng phấn chấn xuất hiện trên bến tàu, dĩ nhiên là đã khôi phục lại thân phận chủ tướng Mạch Tuệ của thất doanh quân Giang Bắc.
Đại tướng quân Vệ Hưng đối với A Mạch vốn chưa từng quá để ý, khi Thương Dịch Chi hồi kinh, mang theo bên người vài quan quân tâm phúc vốn không phải việc gì lạ. Lại nói, lần này Vệ Hưng nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc, trong lòng Thương Dịch Chi mặc dù không muốn, trên mặt cũng chẳng tỏ vẻ gì, nếu không đã chẳng đem mấy tên trợ thủ đắc lực đều trao hết cho Vệ Hưng, ngay cả ba mươi sáu thân vệ tuấn tú nổi danh khắp Thịnh Đô cũng tặng Vệ Hưng đến một nửa. Về phần Thương Dịch Chi có ý định an bài điều gì hay không, Vệ Hưng cũng chẳng buồn hao tâm tổn trí suy nghĩ làm gì cho mệt.
Sau khi A Mạch bái kiến Vệ Hưng liền lui về sau thuyền, cũng không dừng lại lâu ở bên ngoài, mà lập tức chui vào trong khoang, cho đến khi thuyền đi qua Thúy Sơn thì nàng mới từ trong khoang thuyền đi ra, đứng bên mạn thuyền ngây người nhìn vách núi Thúy Sơn cao cả ngàn thước bên bờ sông Thanh Thủy. Đang lúc xuất thần, đột nhiên phát hiện thấy tốc độ của con thuyền dường như chậm lại, A Mạch có chút nghi hoặc, ngẩng đầu nhìn về phía thuyền lớn của Vệ Hưng đã dừng lại, bên cạnh xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ chậm rãi tiến sát lại gần, trên thuyền lớn buông thang dây xuống, một thanh niên mặc cẩm y từ trong thuyền nhỏ đi ra, bắt lấy thang dây leo lên, khi leo đến mạn thuyền thì quay đầu về phía thuyền nhỏ kêu lên: “Tắc Nhu, về sớm đi!”
Trên con thuyền nhỏ cũng không có tiếng trả lời, trong lòng A Mạch vừa động, liền đi lên phía trước vài bước, đứng ở đầu thuyền nhìn về phía con thuyền nhỏ kia, thấy ngoại trừ một người chèo thuyền và một mái chèo màu đỏ cũng không thấy có ai khác, nhưng xuyên qua màn trúc nhìn vào khoang thì có thể nhìn thấy hình bóng của một thiếu nữ xinh đẹp, chỉ lẳng lặng ngồi trong khoang thuyền.
Người thanh niên mặc cẩm y đã lên đến thuyền lớn, phía sau, chiếc thuyền nhỏ chậm rãi chèo đi, người thanh niên lại hướng về phía chiếc thuyền nhỏ vẫy tay thật lâu, sau đó mới quay người lại. A Mạch lúc này mới thấy rõ diện mạo của người nọ, trong lòng đột nhiên cả kinh, không thể ngờ được anh ta lại lên thuyền của Vệ Hưng.
Người nọ cũng quay đầu nhìn thấy A Mạch, bất giác cũng sửng sốt, kinh ngạc, tựa hồ không dám tin là thật, sau một lát mới đột nhiên nhếch môi lộ ra một nụ cười vô cùng sáng lạn, hướng về phía A Mạch chắp tay kêu lớn: “Tiểu huynh đệ!”
A Mạch lập tức hận mình không thể nhảy xuống sông Thanh Thủy này một lần nữa, không thể ngờ trên thế gian này sao lại có kẻ giống như hắn, ngày ấy bị nàng đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Vậy mà giờ đây, anh ta vẫn còn có thể đứng trên thuyền lớn mà chắp tay hưng phấn, cao giọng chào hỏi, A Mạch không nói gì, chỉ xoay người yên lặng đi vào khoang thuyền.
Ban đêm, thuyền dừng lại ở Thanh Hồ, ở trong khoang thuyền, A Mạch liền ngửi thấy một mùi hương ngào ngạt xông vào mũi, liền nhíu mày, bên ngoài đã có tiếng gõ cửa vang lên, nghe có tiếng người nhẹ giọng gọi: “Mạch tướng quân có ở trong khoang thuyền không?”
A Mạch cảm thấy thật vô cùng bất đắc dĩ, biết có tránh cũng không được, đành phải ra mở cửa, cửa khoang thuyền vừa mở ra, một mùi hương nồng đặc đập thẳng vào mặt nàng, khiến A Mạch không khỏi ngửa người ra sau, nheo mắt nhìn người mới đến.
Người vừa đến vẫn một thân cẩm y như trước, một cây chiết phiến, hai tay ôm quyền chắp tay hướng về phía A Mạch, tự cho mình là phong lưu mà cười nói: “Lâm Mẫn Thận, tham quân sự(3) dưới trướng Vệ đại tướng quân, nghe đại danh Mạch tướng quân đã lâu, hôm nay có thể gặp lại, thật may mắn, may mắn!”
A Mạch thấy anh ta không đề cập chút nào đến chuyện ngày ấy ở Thúy Sơn, thì cũng giả bộ làm như hồ đồ, ôm quyền nói: “Lâm tham quân, hạnh ngộ.”
Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch vẫn chưa nhăn mặt với mình, trong lòng nhất thời mừng rỡ, điệu bộ giả vờ đứng đắn nhất thời biến mất không tăm tích, cánh tay rảnh rỗi đưa lên định nắm lấy cổ tay A Mạch: “Mạch tướng quân, chúng ta…”
A Mạch giật cổ tay ra rồi lật lên, lập tức liền ghìm tay của Lâm Mẫn Thận trên khung cửa, thản nhiên nói: “Không biết Lâm tham quân tìm Mạch mỗ có chuyện gì?”
Lâm Mẫn Thận xấu hổ cười cười, ngượng ngùng thu hồi tay lại, đáp: “Gia nhân của ta có làm mấy món điểm tâm, muốn mời Mạch tướng quân đến uống rượu, thưởng thức cảnh trăng thanh gió mát trên Thanh Hồ.”
A Mạch thấy anh ta là tham quân dưới trướng Vệ Hưng, cũng không muốn quá đắc tội, chỉ nói: “Đa tạ ý tốt của Lâm tham quân, nhưng trong quân không được uống rượu, Mạch mỗ không dám trái với quân quy.”
“Ồ, thật vậy à.” Trên mặt Lâm Mẫn Thận không giấu nổi sự thất vọng, ánh mắt vẫn nhìn A Mạch chằm chằm.
A Mạch nhịn không được khẽ nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Lâm tham quân còn chuyện gì nữa không?”
“Không, không có việc gì.” Lâm Mẫn Thận đáp.
“Vậy mời ngài về đi, Mạch mỗ muốn nghỉ ngơi.” A Mạch lạnh lùng hạ lệnh đuổi khách.
Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch nói thẳng như vậy, thật sự không tìm ra được cớ gì nữa, đành không cam tâm tình nguyện mà xoay người rời đi, vừa đi được hai bước lại nghe thấy A Mạch ở phía sau gọi: “Lâm tham quân”, Lâm Mẫn Thận trong lòng vui vẻ, vội vàng quay lại, tươi cười nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân gọi ta có chuyện gì?”
A Mạch chần chờ một chút, mở miệng hỏi nói: “Không biết Lâm tham quân cùng Lâm tể tướng có quan hệ…”
“Đó là gia phụ!” Lâm Mẫn Thận vội vàng đáp, trên mặt khó nén được vẻ đắc chí.
A Mạch thầm nghĩ khó trách anh ta chỉ là một tham quân nho nhỏ lại dám lên thuyền lớn của đại tướng quân Vệ Hưng, mà lại là đi từ thuyền nhỏ trong Lâm gia trang viên lên, ngoại trừ xuất thân của anh ta, thì chắc chắn cũng phải có thêm cả sự ngầm đồng ý của Vệ Hưng thì mới dám như vậy, có thể thấy được quan hệ giữa người này cùng Vệ Hưng không hề tầm thường. Nét lạnh lùng trên khuôn mặt của A Mạch khẽ dãn ra, hơi cong khóe miệng.
Lâm Mẫn Thận thấy vậy, nhất thời liền có chút thụ sủng nhược kinh, nhấc chân quay lại.
A Mạch thấy thế vội vàng đưa tay ngăn anh ta, nói: “Lâm tham quân vẫn nên về thuyền nghỉ ngơi sớm đi.”
Lâm Mẫn Thận tuy không thích, nhưng cũng lại không muốn làm trái với ý nguyện của mỹ nhân, hơn nữa thời gian còn dài, không nên nhất thời vội vã, nếu như chọc giận khiến mỹ nhân không vui, ngược lại sẽ không tốt, vì thế cả cười, nói: “Cũng được, tại hạ sẽ không quấy rầy Mạch tướng quân nghỉ ngơi nữa, cáo từ.” Nói xong, mặc dù vẫn chắp tay cáo từ A Mạch, nhưng ánh mắt lại không chịu rời khỏi hai gò má của nàng.
Trong lòng A Mạch vô cùng tức giận, nhưng trên mặt vẫn bất động thanh sắc, nói một tiếng “Ngài đi mạnh giỏi” rồi đóng cửa khoang thuyền lại. Ngồi xuống giường một lát, thật sự nhịn không được, lại đành phải đứng dậy đi tới mở cửa. Quả nhiên, Lâm Mẫn Thận vẫn còn đang đứng nguyên nơi đó, nhìn A Mạch đột nhiên lại mở cửa, trong mắt tràn đầy vẻ vui mừng, há miệng đang muốn nói chuyện, A Mạch đã lên tiếng trước: “Lâm tham quân, Mạch mỗ có câu này không biết có nên nói hay không.”
Lâm Mẫn Thận vội vàng nói: “Tiểu huynh đệ cứ nói, cứ nói.”
A Mạch do dự một chút rồi nói: “Lâm tham quân, trong quân ít có người dùng huân hương(4), Lâm tham quân nếu đã là tham quân dưới trướng của đại tướng quân, một thân huân hương này vẫn là nên…” Nói đến này, A Mạch ngừng lại, chỉ nhìn Lâm Mẫn Thận mà không nói gì.
Lâm Mẫn Thận cũng chằm chằm nhìn A Mạch, nhìn đến khi A Mạch nhíu mày, lúc này mới phục hồi tinh thần lại, vội vàng đáp: “Hiểu mà, tại hạ hiểu mà.”
A Mạch nói một tiếng “Đa tạ” sau đó liền đóng cửa.
Lâm Mẫn Thận vẫn ngơ ngác đứng đó hồi tưởng lại từng cái nhăn mặt, nhíu mày, từng nụ cười, từng lời nói của A Mạch, rốt cục cũng chẳng hiểu vì sao A Mạch lại nói câu “Đa tạ” với mình, là đa tạ cái gì nhỉ. Một lát sau, có một quan quân khác đi xuống, có chút ngạc nhiên nhìn Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận lúc này mới phục hồi lại tinh thần mà lưu luyến rời đi.
Lâm Mẫn Thận trở lại thuyền lớn, còn chưa quay lại khoang của mình, đã thấy binh sĩ đến truyền lời của đại tướng quân, nói là anh ta nhất định phải qua một chuyến. Lâm Mẫn Thận không kịp nghĩ nhiều, vội đi theo binh sĩ, thấy Vệ Hưng đang ở trong khoang thuyền chờ anh ta, liền cúi đầu hỏi: “Đại tướng quân tìm ta có chuyện gì?”
Vệ Hưng đã nghe từ miệng người khác nói, biết Lâm Mẫn Thận tìm người hỏi thăm về chủ tướng Mạch Tuệ của thất doanh, cười cười, hỏi: “Nghe có người nói ngươi tìm người hỏi về Mạch Tuệ, không biết đã hỏi được chưa?”
Lâm Mẫn Thận nghe anh ta hỏi việc này, liền đĩnh đạc ngồi xuống, trả lời: “Từng gặp một lần ở Thúy Sơn, xem như quen biết, chỉ là không biết tính danh của anh ta, lại càng không biết anh ta là quân Giang Bắc.”
Vệ Hưng nhìn về phía Lâm Mẫn Thận, trầm giọng hỏi: “Ngươi thấy người này như thế nào?”
————————
Chú thích:
1. Hổ khẩu: kẽ tay giữa ngón cái và ngón trỏ.
2. Khổ thơ này mẹ Cún dịch về niêm luật thì tạm ổn nhưng không sát nghĩa lắm.
Hoàng lương: là chỉ hạt kê. Hai chữ này xuất phát từ thành ngữ “Nhất mộng hoàng lương” Ý của câu thành ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được.
Câu thành ngữ này có xuất xứ từ “Chẩm trung ký” của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.
Truyện rằng, ngày xưa có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, chàng vào nghỉ trong một nhà trọ ở Hàm Đan thì tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông, chàng không ngớt lời than phiền với đạo sĩ về cuộc đời nghèo khổ của mình. Đạo sĩ Lã Ông nghe vậy bèn rút một chiếc gối từ ống tay áo ra nói với thư sinh rằng: “Anh hãy gối đầu lên chiếc gối này thì mọi việc sẽ được như ý cả “. Bấy giờ, người chủ quán đang bắc nồi cháo kê, còn thư sinh do vất vả đường trường, đã nằm gối đầu lên chiếc gối của Lã Ông ngủ thiếp đi.
Thư sinh ngủ được một lúc thì nằm mơ mình cưới được một cô vợ họ Thôi rất xinh đẹp. Vợ chàng tuy là con gái cưng của một gia đình giàu có, nhưng lại chăm chỉ và khéo tay, nàng đã giúp chồng thuận lợi trên bước đường công danh và có với nhau mấy mụn con. Về sau các con khôn lớn, ai nấy đều có cuộc sống khá giả, ấm cúng, thư sinh lại có thêm cháu nội cháu ngoại, chàng sống cuộc đời nhàn nhã trong gia đình đến hơn 80 tuổi rồi qua đời.
Khi chàng thư sinh tỉnh giấc, thấy mình vẫn đang ở trong căn nhà trọ nhỏ hẹp, sự vinh hoa phú quý vừa rồi chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nồi cháo kê của chủ quán bắc trên bếp vẫn còn chưa chín.
Câu thành ngữ “Hoàng lương nhất mộng” cũng do đó mà có.
Hiện nay, người ta vẫn thường dùng “Hoàng lương nhất mộng” để ví với ảo mộng và những mong ước không thể thực hiện được.
Trong truyện này, hoàng lương để chỉ ước vọng đặt tình cảm nam nữ vào Thương tiểu Hầu gia của người tiểu thiếp là không tưởng, là điều không thể thực hiện được. Tất nhiên, thực tế thì đây là kế để cho A Mạch có thể biến mất mà không ai nghi ngờ gì.
3- Tham quân: tham nghĩa là tham dự. Mẹ Cún cũng không biết chức vụ này là gì, nhưng đoán có lẽ là một chức vụ được phép tham dự bàn bạc việc quân sự chăng? Ai biết chỉ dùm nhé.
4- Huân hương: là một chất đặc biệt, nó có thể thông qua khứu giác qua hệ thống thần kinh trung ương tác động vào trong não chúng ta. Các loại tinh dầu khác nhau sản sinh các loại phản ứng khác nhau của cơ thể như: vui vẻ, chán ghét, hiểu lầm, thoải mái… Đại loại là sử dụng nước hoa để cơ thể thoải mái tùy vào từng thời điểm.
THỦY QUÂN
Vẻ mặt của Vệ Hưng vẫn bất động, Lâm Mẫn Thận lại vội cúi đầu nghĩ ngợi, rồi ngẩng đầu lên nhìn Vệ Hưng, thử đổi cách diễn đạt: “Vừa gặp đã thấy đẹp đến kinh động lòng người, có một không hai?” Thấy da mặt của Vệ Hưng cuối cùng cũng có chút co giật, Lâm Mẫn Thận lúc này cảm thấy cao hứng vô cùng, dùng chiết phiến vỗ đùi, kêu lên: “Đúng, chính là vừa gặp đã thấy đẹp đến kinh động lòng người, có một không hai!”
Lâm Mẫn Thận khẽ lắc đầu nhắc tới nhắc lui câu “Vừa gặp đã thấy đẹp đến kinh động lòng người, có một không hai”, mà chẳng quan tâm đến cảm nhận của người khác. Vệ Hưng không nói gì, tuy sớm biết rằng vị Lâm công tử này là một bao cỏ, nhưng cảm giác khi nhìn bao cỏ này ở phía xa xa và khi đặt bao cỏ đó bên cạnh dù sao cũng rất khác nhau. Anh ta đang cân nhắc xem làm thế nào để có thể đem ông tổ này quay trở về, thì Lâm Mẫn Thận đã mở miệng nói tiếp: “Đại tướng quân, chúng ta lần này đi Ô Lan chẳng quen biết ai, sao không mời Mạch Tuệ và mấy vị tướng quân đến ở trên thuyền này, trước thì hỏi han để biết chút tình hình của quân Giang Bắc, sau tăng thêm phần hiểu biết giữa bọn họ và chúng ta, tránh để sau này lại phát sinh khoảng cách.”
Vệ Hưng tất nhiên hiểu được trong lòng Lâm Mẫn Thận thật ra có tính toán nhỏ nhặt, nhưng ngoài miệng cũng không nói toạc ra, chỉ nói: “Lời này cũng có lý, nhưng còn phải đợi ngày mai bàn bạc hỏi qua ý kiến của mọi người đã, nếu không lại khiến bọn họ hiểu lầm rằng chúng ta muốn khống chế bọn họ thì trái lại sẽ không hay, về sau khi cùng ở chung trên một con thuyền, không khỏi sẽ cảm thấy bức bách.”
Lâm Mẫn Thận nghe Vệ Hưng nói vậy, cũng không thể nói khác, đành phải trả lời: “Vẫn là đại tướng quân lo nghĩ chu toàn, đợi ngày mai hỏi qua ý kiến bọn họ, như vậy cũng khiến cho bọn họ hiểu được cách đối nhân xử thế của đại tướng quân.”
Vệ Hưng gật đầu không nói, Lâm Mẫn Thận xem ra cũng không còn tâm tư tiếp tục ngồi lại, nên sau khi cùng Vệ Hưng nói dăm ba câu liền đứng dậy cáo từ, quay lại khoang thuyền của mình cho người nấu nước tắm rửa, không những chà xát sạch sẽ mùi hương trên người, mà ngay cả quần áo có tẩm huân hương cũng đều cho người đổ hết xuống Thanh Hồ, hành động rất dứt khoát, về phần bên trong Thanh Hồ có bao nhiêu tôm cá bị đám quần áo tẩm huân hương này làm cho hôn mê thì tạm thời chúng ta không truy xét đến.
Sáng sớm hôm sau, A Mạch đang đợi quan quân trên thuyền, chợt thấy Lâm Mẫn Thận một thân quân trang đi đến, A Mạch nhất thời ngẩn ra, thấy tiểu tử này sau khi tẩy sạch huân hương trên người cùng son phấn trên mặt, lưng thẳng vai rộng, trong bộ quân trang cũng nổi bật lên vẻ anh tuấn.
Lâm Mẫn Thận hiển nhiên cũng nhận thấy A Mạch đang trố mắt nhìn mình, trong lòng cảm thấy vô cùng đắc ý, hướng về phía A Mạch mà giương mắt nhướn mày. A Mạch đưa mắt đi nơi khác, coi như không nhìn thấy.
Một ngày trước khi lên thuyền, A Mạch đã trò chuyện qua với mấy lão tướng trong quân Giang Bắc từng tiếp xúc với Vệ Hưng, biết người này tuy rằng chưa từng cầm quân đánh giặc, nhưng từ một tên thị vệ bình thường mà từng bước một được thăng lên làm thủ lĩnh cấm quân, thì chắc chắn phải có chỗ hơn người, cho nên cũng không dám chậm trễ, cử chỉ thái độ đều vô cùng cung kính. Thấy đám người A Mạch như vậy, Vệ Hưng tất nhiên cũng làm ra vẻ chiêu hiền đãi sĩ, thái độ bình dị gần gũi, hai bên đều tỏ vẻ vô cùng hòa hợp.
Khi câu chuyện cũng đã lưng lửng, Vệ Hưng lại đưa ra ý kiến cho mời đám người A Mạch lên ở cùng trên thuyền lớn, bọn A Mạch nhìn nhau, sau đó, Trương phó tướng là người giữ chức vị cao nhất đứng dậy, khom người nói: “Hảo ý của Đại tướng quân không thể chối từ, nhưng chưa đầy mấy ngày tới chúng ta sẽ tiến vào sông Uyển, thát tử dù chưa hạ được thành Thái Hưng, nhưng trên sông Uyển đã có thuyền của chúng thường xuyên lui tới, bọn thuộc hạ nếu cùng đại tướng quân ở chung trên một con thuyền, mặc dù sẽ thuận tiện để nhận được sự răn bảo của đại tướng quân, nhưng lại sợ sẽ gây nên sự chú ý cho thát tử, không bằng chúng ta phân tán lực lượng, trái lại còn có thể đánh lạc hướng chú ý của chúng, nếu chẳng may có ngộ địch thì cũng có thể chiếu cố lẫn nhau.”
“Trên sông Uyển đã có thuyền của thát tử thường xuyên lui tới sao?” Vệ Hưng quay lại nhìn A Mạch, hỏi.
“Đúng vậy” A Mạch vội vàng đứng dậy đáp: “Chu Chí Nhẫn từ lúc vây khốn thành Thái Hưng đã bắt đầu cho đóng thuyền và huấn luyện thuỷ quân, hiện tại dù chưa đủ sức phong tỏa toàn bộ sông Uyển, nhưng nơi này của Giang Bắc cũng đã bị khống chế, thuyền của quân ta vốn đều phải đi men theo mạn phía nam, trong chuyến trở về lần để phòng ngừa bất trắc, đại tướng quân cũng nên đổi sang thuyền khác thì tốt hơn.”
Vệ Hưng gật đầu nói phải, nhưng Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh thì không khỏi lộ ra sự thất vọng, đột nhiên lên tiếng: “Mạch tướng quân, ta lên thuyền ngươi được không? Vừa đúng lúc có mấy vấn đề quân sự còn chưa rõ, nên rất muốn thỉnh giáo Mạch tướng quân.”
A Mạch vừa đặt mông xuống ghế, nghe vậy thiếu chút nữa thì nhảy dựng lên, chỉ cố gắng nén lại, hít một hơi thật sâu, rồi nói: “Không dám nhận hai chữ ‘Thỉnh giáo’ của Lâm tham quân, Mạch mỗ chỉ là một tướng trong quân doanh, cho nên không thể hiểu hết công vụ của toàn quân, Lâm tham quân nếu muốn học hỏi về quân vụ, thì nên thỉnh giáo Trương phó tướng sẽ tốt hơn.”
Lâm Mẫn Thận theo tầm mắt của A Mạch liếc xéo qua, nhìn thấy Trương phó tướng là một đại hán râu quai nón, khi quay lại nhìn về phía A Mạch, trong mắt hình như có một tia ai oán, không chút nào cố kỵ đến Trương phó tướng cũng đang ngồi ở đấy. Vệ Hưng cùng đám người tùy tùng đều biết tính tình của Lâm Mẫn Thận, chỉ bật cười trong bụng, nhưng trên mặt lại không động sắc chút nào, nhưng Trương phó tướng cùng những người trong quân Giang Bắc lại không biết lai lịch của Lâm Mẫn Thận, thấy anh ta chẳng qua chỉ là một tham quân, mà lại có lá gan lớn như vậy, chẳng những ở trước mặt đại tướng quân Vệ Hưng nói chuyện rất tùy tiện, mà thậm chí khi A Mạch nói để cho anh ta thỉnh giáo Trương phó tướng chuyện quân vụ, người này lại tỏ thái độ như thế, rõ ràng là không để Trương phó tướng vào trong mắt. Trong lòng mọi người khó tránh khỏi bực bội, chỉ lạnh nhạt ngồi đó, cũng không thèm để ý tới Lâm Mẫn Thận.
Vệ Hưng làm sao lại không nhìn ra đám người của Trương phó tướng đang bất mãn trong lòng, đành phải hoà giải: “Nếu đã như vậy, phiền Trương tướng quân đem Lâm Mẫn Thận theo, anh ta mới tòng quân, còn nhiều điều không hiểu, mong Trương tướng quân chỉ bảo thêm.”
Trương phó tướng nào dám không nể mặt Vệ Hưng, nên trong lòng dù không muốn, vẫn phải đứng dậy đáp: “Tuân lệnh đại tướng quân.”
Lâm Mẫn Thận vốn nghĩ muốn được gần gũi thân cận với A Mạch, hiện giờ không những không đạt được ý nguyện, ngược lại tự nhiên lại bị cột chung cùng một hán tử râu quai nón cao lớn, thô kệch, trong lòng khó tránh khỏi bất mãn, song bị Vệ Hưng hung hăng trừng mắt nhìn một cái, lúc này mới cực kỳ không tình nguyện đứng dậy hướng về phía Trương phó tướng ôm quyền, nói: “Đa tạ Trương tướng quân.” Miệng mặc dù nói như vậy, nhưng ánh mắt lại vẫn lưu luyến không rời nhìn về phía A Mạch.
Mấy người trong quân Giang Bắc đều là những hán tử trên sa trường, tuy rằng có chút thô lỗ, nhưng dù sao cũng không phải là kẻ ngốc, thấy ánh mắt của vị Lâm tham quân này luôn nhìn A Mạch không rời, đám người Trương phó tướng lúc này mới bừng tỉnh đại ngộ, nhịn không được đều nhìn thoáng qua A Mạch.
Trong lòng A Mạch tức giận đến cực điểm, song trên mặt cũng không mảy may thể hiện điều gì, chỉ âm thầm nghiến răng, hận ngày ấy không xuống tay ngoan độc hơn chút nữa mà phế luôn cái tên Lâm Mẫn Thận này đi thì có phải sẽ tốt hơn bao nhiêu, lại âm thầm cầu mong một hôm nào đó trời gió lớn không trăng có thể bắt gặp Lâm Mẫn Thận đơn thân độc mã, sẽ ra tay đánh chết luôn cái tên nhiễu sự này cho xong việc. Thật ra A Mạch vì tức giận mà trở nên hồ đồ, không biết rằng Lâm Mẫn Thận chính là chỉ ngóng trông có một hôm trời gió lớn không trăng để một mình đi gặp nàng, mặc dù không thể cùng nhau ngắm trăng nói chuyện tâm tình, nhưng chỉ cầu có thể gặp được mỹ nhân là tốt rồi.
Vệ Hưng thấy Lâm Mẫn Thận vì Mạch tướng quân mà thất thố như thế, nhịn không được cũng âm thầm quan sát kỹ A Mạch, thấy A Mạch mặt mày trong sáng, ngũ quan tuấn tú, khuôn mặt dáng người đều đẹp đẽ hiếm thấy, lại không phải là vẻ mềm mại đáng yêu của những sủng nam nuôi dưỡng trong những nhà hào môn quyền quý, ngược lại từ vẻ mặt đến khí chất đều để lộ ra một vẻ anh khí bừng bừng. Trong lòng Vệ Hưng cũng không khỏi kinh ngạc, một thiếu niên tuấn tú như vậy làm thế nào có thể sinh tồn được trong môi trường quân đội, không những thế lại còn lên tới vị trí chủ tướng của một doanh?
Lâm Mẫn Thận vẫn còn ngẩn người ngắm nhìn A Mạch, trên mặt A Mạch đã hiện rõ vẻ tức giận. Vệ Hưng thấy thế, khẽ ho nhẹ hai tiếng, tuyên bố buổi họp chấm dứt. A Mạch cáo từ quay trở lại thuyền, Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch phải đi, liền đi theo phía sau, dọa Vệ Hưng giật mình mà vội vàng gọi anh ta quay lại, đợi tất cả mọi người đi hết, mới lạnh mặt giáo huấn: “Mẫn Thận, đây là trong quân, không thể làm loạn.”
Ai ngờ này Lâm Mẫn Thận lại không e dè nhìn Vệ Hưng, trong giọng nói để lộ ra nét ưu thương: “Vệ đại ca, ngươi không biết đấy thôi, từ khi ta nhìn thấy anh ta lần đầu tiên ở Thúy Sơn, thì đã biết đây là người mà ta cả đời này tìm kiếm.”
Vệ Hưng nhất thời không nói gì, chỉ đưa tay lên trán, thầm nghĩ cuộc đời ngươi mới ngắn ngủn được hơn hai mươi năm, làm sao mà biết được đây là người mà ngươi mất cả đời tìm kiếm? Hơn nữa ngươi chẳng ra nam, chẳng ra nữ thế này là cái dạng gì? Trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng ngoài miệng cũng không nói gì, chỉ đành khoát tay ý bảo Lâm Mẫn Thận lui ra. Từ đó về sau, Vệ Hưng đối với Lâm Mẫn Thận quản thúc càng chặt, thứ nhất bởi Lâm Mẫn Thận là con trai độc nhất của Lâm tể tướng, nếu giao vào tay anh ta, tất nhiên anh ta cũng muốn giao lại một Lâm Mẫn Thận không sứt mẻ gì trả lại cho Lâm tể tướng, thứ hai, tuy A Mạch tướng mạo tuấn mỹ, nhưng dù sao cũng là chủ tướng của một doanh trong quân Giang Bắc, Vệ Hưng cũng không muốn đắc tội với người này, hơn nữa anh ta còn muốn lấy lòng quân Giang Bắc, dù sao đối với những người trưởng thành từ quân Giang Bắc, bọn họ tạm thời chỉ tính là người ngoài mà thôi.
Cứ như vậy đi được mấy ngày, thuyền cuối cùng cũng nhập vào sông Uyển, Vệ Hưng cũng đổi sang thuyền nhỏ, đi ngược dòng tiến về phía trước. Lần này, Vệ Hưng đi nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc, thuỷ quân Phụ Bình xuất chiến hạm hộ tống Vệ Hưng. Khi thuyền đi qua ngoài thành Thái Hưng thì đúng vào tiết mưa dầm, thuyền men theo vùng Phụ Bình, Giang Nam, khi đối diện với thành Thái Hưng, thoạt nhìn lờ mờ không rõ lắm, nhưng xa xa nhìn kỹ lại, không ngờ thấy ngoài thành chính là thủy trại quân Bắc Mạc.
A Mạch cùng các quan quân đều lên trên thuyền của Vệ Hưng, mọi người đều đứng ở mạn thuyền nhìn về phía Giang Bắc, Liễu Thành, tướng quân thống lĩnh thuỷ quân Phụ Bình đứng bên cạnh Vệ Hưng, chỉ vào thủy trại Bắc Mạc ở bờ bên kia giới thiệu: “Chu Chí Nhẫn dùng đại quân vây khốn Thái Hưng, không tấn công tường thành mà lại huấn luyện thuỷ quân trước, chưa đầy một năm đã có chút thành tựu, chiến hạm của thát tử mặc dù hiện tại chưa thể vượt sông đến quấy rầy Phụ Bình, nhưng cũng không ngừng cho chiến thuyền ra sông thao luyện, cũng có lúc còn dám cho thuyền xích mã(1) tiến đến gần bờ sông bên phía Giang Nam.”
Vệ Hưng vốn không hiểu thuỷ quân, đối với những loại chiến thuyền này cũng không hiểu biết mấy, nên không hỏi nhiều, chỉ nhìn thành Thái Hưng ở phía đối diện mà không nói gì, Lâm Mẫn Thận ở bên cạnh lại đột nhiên lên tiếng: “Nếu đến ven bờ Giang Nam, thủy quân Phụ Bình sao không cho thuyền ra chặn lại?”
Liễu Thành giải thích: “Thuyền xích mã tốc độ rất nhanh, chẳng khác gì ngựa trên đồng bằng. Bọn chúng tới không nhiều lắm, đợi đến khi quân ta phát hiện ra, thì đuổi theo đã không kịp nữa, nên lại quay trở lại bờ Giang Bắc, hơn nữa quân ta sợ thát tử dùng kế dụ địch, nên không dám manh động đuổi theo.”
Đang nói, giữa làn mưa bụi trên sông đột nhiên hiện ra mấy chiến thuyền nhẹ nhàng tiến đến, Liễu Thành vội đưa tay chỉ và nói: “Nhìn xem! Đó chính là thuyền xích mã!”
Mọi người vội vàng nhìn qua, thấy mấy chiến thuyền kia đều sơn thành màu đen, trên thuyền chỉ có khoảng hơn chục người, đều mặc giáp nhẹ, đúng là quân sĩ Bắc Mạc. Đối phương nhìn có vẻ như cũng không e ngại chiến thuyền bên ta, từ giữa sông đi song song cùng chiến thuyền, khi tiến lại gần, khi lại lùi ra xa, giống như cố ý trêu đùa chiến hạm Nam Hạ, thật là càn rỡ.
Có tướng quân Giang Bắc không vừa mắt, liền hỏi thẳng Liễu Thành: “Thát tử càn rỡ như thế, chẳng lẽ quân ta lại không có thuyền xích mã sao?”
Liễu Thành trên mặt có chút xấu hổ, nói: “Có, nhưng chờ đến khi buông được thuyền xích mã từ trên chiến hạm của ta xuống thì thát tử đã sớm chạy mất không còn tung tích.”
Mọi người thấy thống lĩnh thuỷ quân nói như vậy, biết không thể làm gì, nhưng nhìn thấy người Bắc Mạt cứ lượn lờ trước chiến thuyền như vậy chính là không coi mình vào đâu, đương nhiên đều cảm thấy tức giận. Trương phó tướng nheo mắt ngắm ngắm khoảng cách với chiến thuyền Bắc Mạc, nhỏ giọng hỏi A Mạch: “Nếu có một tay cung mạnh ở đây, không biết có thể bắn tới thuyền của thát tử hay không.”
A Mạch đánh giá khoảng cách song phương, rồi khẽ lắc lắc đầu, thuyền xích mã gần nhất cũng cách hơn hai trăm bước, lại đang ở trên sông, người nào có thể ở khoảng cách xa như vậy mà bảo trì được độ chính xác, trừ phi là có Thương Dịch Chi ở đây.
Trương phó tướng cũng hiểu rằng dùng cung tên bắn thát tử có chút không thực tế, nên cũng không nói thêm nữa, nhưng điều này khi lọt vào trong tai Vệ Hưng, trong lòng vừa động, anh ta liền quay đầu thấp giọng phân phó thân binh bên người quay lại khoang thuyền lấy cung của anh ta đến. Thân binh vội vàng lui ra, Vệ Hưng vừa quay đầu lại, đột nhiên nghe thấy có người chỉ vào giữa sông kêu lên: “Dưới sông có người!”
Mọi người nghe tiếng vội vàng nhìn lại, quả nhiên thấy dưới sông có một người đang bơi. Sau một lát, một chiếc thuyền xích mã tiến đến gần người nọ, trên thuyền có binh lính vươn tay muốn kéo người nọ lên, nhưng người ở dưới nước không để ý đến quân sĩ trên thuyền, chỉ dùng tay bám mép thuyền rồi từ trong nước tung người lên. Mọi người lúc này mới thấy rõ người nọ, tuổi tác không lớn, trên người chỉ có một cái quân khố, dáng người xa xa nhìn lại thật vô cùng tinh tráng rắn chắc. Trên chiếc thuyền xích mã kia sớm có quân sĩ mở một tấm áo choàng ra, người nọ cũng không sốt ruột mặc vào, chỉ bình tĩnh lau nước bám trên người.
Trương phó tướng ngạc nhiên, nhịn không được lại nghiêng đầu nói với A Mạch: “Người này đúng là quái thai, đang giữa mùa lạnh như thế này, vậy mà lại bơi lội ở dưới sông.”
A Mạch nhìn lại đã sớm hết hồn, vừa rồi khi người nọ còn ở trong nước nhìn không rõ lắm, hiện giờ anh ta đã lên trên thuyền, khoảng cách mặc dù xa, lại vẫn nhìn rõ rành rành, người đang chậm rãi mặc quần áo kia chẳng phải Thường Ngọc Thanh thì là ai!
————————-
Chú thích:
1- Thuyền xích mã: Xích Mã hay Xích Mã Thiên Tử, tương truyền là người của Thiên Giới, rất nhanh nhẹn, bước chân rất nhẹ, rất êm… Người ta đồn rằng Xích Mã có phép thuật, thứ phép thuật đó gọi là “Thần Túc Thông”, đôi chân thần kỳ, ông có thể chạy nhanh hơn cả những cơn gió, có thể chạy thoát khỏi những cơn mưa xuôi theo gió, có thể đuổi theo và bắt lại được mũi tên do chính ông vừa bắn ra…
Thuyền xích mã là một loại thuyền nhẹ, tốc độ nhanh, di chuyển linh hoạt.
2- P/S: Tuần vừa rồi mẹ Cún bận tối mắt tối mũi nên không có thời gian post bài. Nếu các nàng thấy hôm nào mẹ Cún không post bài thì chỉ có 1 trong 2 lý do: hoặc vì công việc, hoặc vì sức khỏe.
Vì vậy, các nàng cứ kiên nhẫn chờ, mẹ Cún không bỏ dở đâu. Nhưng đừng ai hối thúc nhé, vì đọc những dòng hối thúc ấy khiến tâm trạng mẹ Cún rất tệ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét