Ngay sau đó, Thường Ngọc Thanh một mình rời đi, A Mạch đợi một lúc rồi mới lấy ra từ trong tủ một bộ quần áo nam giới, chẳng buồn quan tâm xem xấu đẹp hay cũ mới, chỉ cần khoác được lên người, sau đó lén lút lẻn ra khỏi nhà ra đến bờ sông, đi ngược lên vùng thượng lưu.
Lại nói Trương Sinh và Trương Sĩ Cường đưa người đi dọc theo hạ lưu, gặp phải núi cao nên đường rất khó đi, lại vừa cẩn thận tìm kiếm ở giữa sông, tốc độ vì thế mà chậm lại rất nhiều. Cứ như vậy tìm đến ba ngày mà vẫn không thấy bóng dáng của A Mạch đâu, sắc mặt mọi người càng thêm u ám, trong lòng ai cũng cảm thấy không hy vọng là A Mạch còn sống, chỉ có Trương Sinh và Trương Sĩ Cường vẫn không chịu bỏ cuộc, nhất là Trương Sĩ Cường, vẫn kiên trì nói Ngũ trưởng sẽ không chết. Mọi người không dám nói gì, đành phải tiếp tục tìm kiếm, ai ngờ đợi đến sáng sớm ngày thứ tư, A Mạch thế mà lại xuất hiện trước mặt bọn họ.
Trương Sĩ Cường nhất thời vừa mừng vừa sợ, ngay cả nói cũng không nói nên lời, A Mạch cười cười, đẩy mạnh vào người Trương Sĩ Cường, cười nói: “Thế nào? Mới mấy ngày không gặp mà đã không còn nhận ra ta nữa sao?” Nói chưa dứt lời, đôi mắt Trương Sĩ Cường đã đỏ hoe. A Mạch dở khóc dở cười, trước mặt nhiều người thế này cũng không tiện nói gì, liền quay đầu gọi Trương Sinh: “Trương đại ca, ngươi vất vả rồi.”
Trương Sinh cũng nhìn A Mạch chằm chằm, lúc này mới thở phảo nhẹ nhõm, thì thào nói: “Cuối cùng cũng đã tìm thấy……”
A Mạch nhất thời nghe không rõ liền hỏi lại: “Cái gì?”
Trương Sinh lại nói: “Mạch tướng quân trở về là tốt rồi, đại tướng quân và Đường tướng quân đều vô cùng lo lắng, nếu thân thể Mạch tướng quân không có gì trở ngại, mời tướng quân mau chóng trở về doanh trại.”
A Mạch gật đầu, hỏi Trương Sinh nói: “Đại quân hiện ở đâu?”
Trương Sinh đáp: “Một ngày trước có người tới thông báo nói là đã lên phía bắc giao chiến cùng Thường Ngọc Tông, hiện tại không biết đã đi đến đâu.”
A Mạch nhìn bốn phía, không thấy có ngựa liền hỏi: “Ngựa đâu?”
Trương Sĩ Cường giành trả lời trước nói: “Dọc bờ sông có nơi địa thế quá cao, chiến mã không thể đi được, Trương tướng quân liền cho mọi người đi bộ tới đây.”
Thì ra A Mạch khi rơi vào giữa sông đã bị dòng nước cuốn về phía hạ du, sau lại lại bị hôn mê bất tỉnh, tất cả đều là dựa vào Thường Ngọc Thanh mang lên bờ, chính nàng cũng không biết địa hình dọc theo con sông như thế nào, hiện nghe Trương Sĩ Cường nói mới hiểu được vì sao Trương Sinh phải mất tới mấy ngày đêm mới đi đến nơi này. A Mạch biết xuôi theo dòng nước là núi cao nhưng nếu đi dọc theo bờ sông này rồi vượt qua mấy ngọn núi kia thì lại càng khó khăn hơn, khó trách nhìn dáng vẻ của mọi người lại chật vật đến vậy. Nghĩ đến đây, A Mạch không khỏi lại nhìn về phía Trương Sinh, thấy trên người anh ta bám đầy bùn đen, cái chân bị thương cũng bị bùn đen bao kín nhìn không rõ màu da, trong lòng A Mạch âm thầm cảm động, trịnh trọng hướng về phía Trương Sinh hành lễ nói: “Đa tạ ơn cứu trợ của Trương đại ca!”
Trương Sinh vội vàng lắc mình tránh né, nói: “Mạch tướng quân đừng như vậy, làm thế khác nào muốn lấy mạng ta.”
A Mạch cười cười, không nhiều lời nữa, sau khi cân nhắc cẩn thận liền phân phó mọi người lưu lại cùng Trương Sinh thong thả đi sau, còn mình dẫn theo Trương Sĩ Cường vội vàng vượt núi trở lại quân doanh. Trương Sĩ Cường vốn sớm theo A Mạch rèn luyện cước lực, lại thêm đương độ tuổi trẻ, nên mặc dù trước đó đã mệt mỏi đến cực điểm, lại vẫn cắn răng theo sát phía sau A Mạch chưa từng bị tụt lại quá xa, hai người cứ như vậy đi vội vã hai ngày đêm mới trở về đến quân doanh, Đường Thiệu Nghĩa quả nhiên đã dẫn quân bao vây tàn quân của Thường Ngọc Tông ở Nhạn Sơn.
A Mạch và Trương Sĩ Cường đã mệt mỏi đến nỗi không còn ra người hình, A Mạch tuy là một cô gái khỏe mạnh hiếm thấy nhưng lại vừa bị bệnh nặng mới khỏi, thân thể lúc này gần như kiệt sức, hoàn toàn dựa vào Trương Sĩ Cường mới đến được doanh trướng của Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa bước vội vài bước tiến đến nắm chặt lấy hai vai A Mạch, tinh tế nhìn nàng đánh giá mấy lượt, lúc này mới trầm giọng nói: “Còn sống là tốt rồi.”
Tuy chỉ là bốn chữ ngắn ngủn song khi lọt vào trong tai thì A Mạch cũng không khỏi cảm động. Nàng nhếch miệng cười cười, hạ mắt xuống nói: “Đại ca đã quên rồi sao? Khi còn ở phía Bắc thành Thái Hưng, ta cùng đại ca đã từng nói chúng ta đều nhất định phải còn sống!”
Đường Thiệu Nghĩa cũng gượng cười, hai tay vẫn nắm chặt vai A Mạch, cố gắng nén lại nỗi xúc động muốn ôm A Mạch vào lòng, mà chỉ kéo A Mạch ngồi xuống, quay đầu lại phân phó thân binh đi chuẩn bị cơm canh, rồi lại nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Không cần giữ lễ tiết, ngồi xuống đi.”
Nhưng Trương Sĩ Cường vẫn không chịu ngồi xuống, chỉ cảm tạ Đường Thiệu Nghĩa rồi nhìn về phía A Mạch nói: “Tướng quân, ta ra ngoài trước.”
A Mạch biết anh ta ở trong này tất sẽ cảm thấy câu thúc, liền gật đầu nói: “Ngươi về doanh trước đi, có việc gì thì ta sẽ cho gọi ngươi.”
Trương Sĩ Cường đồng ý, lại hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa hành quân lễ, rồi mới xoay người rời đi.
A Mạch đợi anh ta ra ngoài mới quay lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, tình hình chiến sự giữa ta và thát tử thế nào rồi?”
Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Quân của Thôi Diễn sau khi bị đánh cho tan tác thì chạy lên hướng bắc hội quân cùng tàn quân của Thường Ngọc Tông, Thường Ngọc Tông vốn không chịu xuất chiến, ta cho người đóng giả Thường Ngọc Thanh, treo lên trước quân mới khiến Thôi Diễn xuất trận, Thường Ngọc Tông sợ Thôi Diễn mắc phải sai lầm, rơi vào đường cùng cũng đành phải xuất chiến, sau khi bị quân ta đánh bại liền dẫn quân trốn lên núi Nhạn Sơn, hôm nay đã là ngày thứ ba rồi.”
A Mạch lại hỏi: “Tình hình thương vong giữa địch và ta thì thế nào?”
“Quân Bắc Mạc tổn thất quá nửa, quân ta có thương vong nhưng không lớn, chỉ có điều Thôi Diễn từng xâm nhập vào trong trận địa của ta, Vệ Hưng chưa lành vết thương nên không thể nghênh chiến, khiến cho Thôi Diễn giết mất mấy tên thân vệ, trong lúc bối rối, Lâm Mẫn Thận làm đổ lá cờ nguyên soái của đại tướng quân, trùng hợp lại phủ lên đầu Thôi Diễn làm che mất tầm mắt của anh ta, lúc này, một thân vệ nhân cơ hội đó liền cho Thôi Diễn một đao, chỉ tiếc là không chém trúng chỗ hiểm nên vẫn để cho anh ta chạy thoát.”
A Mạch nghe thấy Lâm Mẫn Thận trong lúc vô tình đụng phải soái kỳ cứu Vệ Hưng thoát chết, trong lòng không khỏi vừa động, lập tức hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi có tin lá cờ nguyên soái lại trùng hợp đổ lên đầu Thôi Diễn như vậy không?”
Đường Thiệu Nghĩa hơi trầm ngâm, nói: “Anh ta nói là đúng dịp thì đó là đúng dịp, trong lòng ta và ngươi cứ hiểu như vậy là được rồi.”
“Cũng phải.” A Mạch gật đầu, lại hỏi: “Đại ca hiện giờ vây Thường Ngọc Tông trên núi, huynh đã có tính toán gì chưa?”
Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Ta đang cân nhắc biện pháp ép Thường Ngọc Tông xuống núi.”
A Mạch thầm nghĩ nếu chỉ có Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì buộc bọn họ xuống núi thật ra dễ như trở bàn tay, nhưng hiện giờ Thường Ngọc Thanh sợ là cũng đã lên trên núi, nếu tính kế để lừa anh ta thì rất khó, huống chi nàng và anh ta đã có hẹn ước từ trước rồi. A Mạch lo nghĩ, song cũng không nói ra chuyện cùng Thường Ngọc Thanh ước hẹn, chỉ nói: “Thường Ngọc Tông vốn có ý định bất động tại phía bắc mà chờ viện quân Dự Châu, hiện nay trốn lên trên núi, nếu nói về thời gian thì anh ta có lợi thế hơn chúng ta, một khi viện quân của thát tử ở Dự Châu đến, quân ta sẽ rơi vào tình thế thập phần hung hiểm.”
Đường Thiệu Nghĩa sao lại không nhìn thấu ý đồ của Thường Ngọc Tông, chỉ có điều nếu cứ như vậy buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì đúng là không cam lòng, không khỏi thở dài: “Hiện nay trên tay Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn không tới một vạn quân, trong đó lại có nhiều kẻ là thương binh bại tướng, nếu cứ như vậy mà thả bọn chúng thì thật đáng tiếc.”
A Mạch hỏi: “Đại ca thấy tiếc vì không thể nuốt gọn một vạn binh mã hay là thấy tiếc vì không thể trừ bỏ được Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn?”
Đường Thiệu Nghĩa hơi có chút khó hiểu, nhìn về phía A Mạch hỏi: “Có gì khác nhau sao?”
A Mạch cười nói: “Tất nhiên là rất khác nhau, bỏ qua một vạn binh mã thì đáng tiếc vô cùng, nhưng nếu buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn, thì đại ca phải cao hứng mới đúng, Thường Ngọc Tông không phải là kẻ đại tài đủ để gây nên mối họa, Thôi Diễn lại chỉ là một gã thất phu lỗ mãng, thả anh ta ra so với giết có khi còn lợi hơn rất nhiều!”
Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi cũng nở nụ cười, nói: “Ngươi nói cũng đúng, chẳng qua nếu muốn lui binh thì Vệ Hưng phải gật đầu đồng ý mới được, mặc dù ông ta bị trọng thương nhưng dù sao vẫn là thống soái của quân Giang Bắc! Ngươi thấy trong người như thế nào? Hay là nghỉ ngơi một chút rồi hãy đến gặp ông ta?”
A Mạch từ trên ghế đứng dậy, nói: “Không việc gì, đi thôi.”
Đường Thiệu Nghĩa lại đưa mắt nhìn A Mạch nói: “Lui binh cũng không phải chuyện cần làm gấp gáp, trước mắt ngươi cứ ăn vài thứ đi đã.”
A Mạch sớm đã đói cồn cào, nhưng nàng đến tìm Đường Thiệu Nghĩa trước Vệ Hưng đã là không đúng, nếu còn tiếp tục ở lại đây ăn cơm rồi mới đi gặp Vệ Hưng, sợ là càng khiến Vệ Hưng nghi kỵ, liền lập tức nói: “Không sao, chỉ đói một chút không đáng ngại, đi gặp Vệ Hưng trước thì hay hơn.”
Đường Thiệu Nghĩa ngẫm lại cũng thấy phải, gật đầu nói: “Cũng tốt.” Mới ra đến cửa trướng thì đúng lúc gặp thân binh bưng cơm canh đến, Đường Thiệu Nghĩa cầm lấy cái bánh bao nhét vào trong tay A Mạch, lúc này mới đưa nàng đi tìm Vệ Hưng.
Vệ Hưng ở trong trướng nhìn thấy A Mạch vẫn còn sống trở về thì vô cùng cao hứng, trấn an vài câu, rồi lại hỏi A Mạch những chuyện diễn ra khi nàng chạy trốn. A Mạch đem những chuyện trải qua mấy ngày vừa rồi nửa thật nửa giả nói một lượt, chỉ kể là ở trong nước dùng chủy thủ cắt đứt dây buộc áo giáp bằng da trâu mới thoát thân được, lại bị dòng nước cuốn đi rất xa mới bơi được vào bờ, nhưng lúc đó lại kiệt sức mà ngất đi, may mắn được một hộ nông gia cứu, vì thế mà còn sống trở về.
Đúng lúc Lâm Mẫn Thận đang ở trong trướng của Vệ Hưng, nghe thấy vậy liền liên tục kinh hô, lại sợ hãi mà than rằng: “Mạch tướng quân bơi giỏi thật, nếu đổi là người khác, sợ là sớm đã bị cái áo giáp kia kéo chìm xuống đáy sông rồi, thế mà Mạch tướng quân vẫn còn có thể bình tĩnh cắt đứt dải áo, quả thực không giống với người thường!”
A Mạch thản nhiên nói: “Tình thế bức bách cũng chỉ có thể liều chết thử một lần xem sao, nếu Lâm tham quân bị rơi xuống sông, e là cũng có thể làm được.”
Lâm Mẫn Thận cười cười, đang muốn nói tiếp, lại nghe Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại tướng quân, quân ta đã vây khốn thát tử ba ngày, Thường Ngọc Tông quyết tử thủ Nhạn Sơn, nếu chúng ta tiếp tục vây nữa chỉ sợ là sẽ mất đi lợi thế, một khi viện quân thát tử ở Dự Châu đến nơi, quân ta sẽ rơi vào cục diện bị động, chi bằng hiện giờ ta bỏ Nhạn Sơn mà đi, tránh rơi vào kế của bọn chúng.”
Vệ Hưng cân nhắc một lát rồi nhìn về phía A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân cảm thấy thế nào?”
A Mạch đáp: “Thường Ngọc Tông đã không còn khả năng gây họa nữa, mà quân ta vây núi cũng đã lâu, lúc này cũng nên tìm một nơi phù hợp để nghỉ ngơi hồi phục rồi sẽ tính tiếp.”
Vệ Hưng thấy A Mạch nói có lý, khi anh ta ra khỏi núi Ô Lan thì hào quang vạn trượng, nhưng qua một trận chiến ở thành Thái Hưng thì lại phải chịu một đòn đả kích lớn, nên thái độ của anh ta trong việc điều quân khiển tướng đối với Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nể trọng hơn rất nhiều, hiện nghe Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch đều đề nghị lui binh, liền gật đầu nói: “Cũng tốt, chỉ không biết nên lui về hướng nào để bố trí cho quân sĩ nghỉ ngơi hồi phục được thỏa đáng?”
Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi nói: “Hiện nay hai lộ đại quân của thát tử đều bị chúng ta phá, hướng đông hướng tây đều có thể đi, song thát tử đương nhiên không thể ngờ được chúng ta còn dám quay đầu lại đi theo hướng tây, nên theo ta thấy không bằng bày ra hư chiêu ở hướng đông mà lừa Thường Ngọc Tông, đợi viện quân thát tử của Dự Châu đến cũng sẽ nghĩ rằng chúng ta đi theo hướng đông, lừa bọn họ đi theo hướng đó, còn chúng ta lại âm thầm đi về hướng tây mà chọn nơi nghỉ ngơi hồi phục.”
Vệ Hưng vẫn chưa hạ quyết tâm, Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh đã vỗ tay hoan nghênh khen: “Kế sách của Đường tướng quân hay lắm, đợi chúng ta nghỉ ngơi hồi phục xong, có thể từ phía sau đánh lén viện quân thát tử Dự Châu, đúng là kế sách nhất cử lưỡng tiện!”
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn nhau rồi đều im lặng, Vệ Hưng lại hạ quyết tâm nói: “Nếu đã như vậy, chúng ta liền lui về hướng tây.”
A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa nhất tề đồng ý. Đợi ra khỏi doanh trướng của Vệ Hưng, A Mạch mới hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi cảm thấy Lâm Mẫn Thận là người như thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa khẽ lắc đầu, nói: “Nhất thời cũng chưa nhìn thấu.”
A Mạch trầm mặc một lát, đột nhiên nói: “Ta chỉ cảm thấy anh ta có vấn đề, lại không biết là ở chỗ nào.”
Đường Thiệu Nghĩa cũng có loại cảm giác này, luôn cảm thấy Lâm Mẫn Thận có chút cổ quái, nhưng lại không thể nói được anh ta bất bình thường ở điểm nào. Ban đầu chỉ nghĩ anh ta được Vệ Hưng che chắn cho theo quân Giang Bắc để đánh bóng, nhưng sau một thời gian, trải qua vô số chiến dịch lớn nhỏ, lại càng cảm thấy người này không hề đơn giản. Những cái khác tạm thời không nói đến, chỉ nói đến hai lần Thôi Diễn xâm nhập vào trong trận địa của quân Giang Bắc, chém Vệ Hưng bị thương, giết chết vô số thân vệ, phụ tá, mà Lâm Mẫn Thận lại chẳng hề bị tổn thương đến một sợi tóc, vận khí của anh ta không thể chỉ dùng một từ “Tốt” để hình dung.
Đường Thiệu Nghĩa không nói gì, mặc dù trong lòng có nhiều phỏng đoán, cũng không nói, chỉ bảo A Mạch: “Trước mắt đừng vội quản đến việc này, ngươi về doanh trại ăn uống rồi nghỉ ngơi cho tốt, ta đi an bài quân đội đánh nghi binh để lui quân.”
NGHỊ HÒA
A Mạch chỉ cười, rồi tiễn mọi người ra ngoài, lúc này mới sai Trương Sĩ Cường chuẩn bị quân trang cho nàng thay, lại dặn: “Ta ngủ một lát, một lúc nữa cho người đến gọi ta dậy, ngươi cũng không phải canh gác đâu, đi ngủ đi, khoảng đầu giờ chiều thì đến đây.”
A Mạch quả nhiên đoán không sai, đến đầu buổi chiều, quân Giang Bắc đã chuẩn bị đâu vào đấy, bắt đầu lui về phía đông.
Trên núi Nhạn Sơn, Thường Ngọc Tông được quân sĩ hồi báo rằng quân Giang Bắc bắt đầu rút quân, trong lòng kinh ngạc, liền hỏi Thường Ngọc Thanh: “Thất ca, bọn mọi rợ rút quân như thế liệu có trá không?”
Thường Ngọc Thanh im lặng không nói gì, anh ta trở về sớm hơn so với A Mạch, thừa dịp đêm tối liền lẻn lên núi Nhạn Sơn, vừa lên đến nơi đã tiến hành an bài lại tuyến phòng ngự, không ngờ quân Giang Bắc lại rút quân. Thường Ngọc Tông thấy anh ta trầm mặc cũng không dám quấy rầy, chỉ yên lặng đứng một bên, đợi lát sau mới nghe Thường Ngọc Thanh nói: “Trước cứ quan sát cho kỹ rồi hẵng hay.”
Hai người đi đến điểm cao nhìn, quả nhiên thấy dưới núi, quân Giang Bắc đã nhổ trại đi về hướng đông. Là A Mạch sự thật muốn thủ tín thả anh ta xuống núi hay là nàng lại có quỷ kế gì khác đây? Thường Ngọc Thanh nhất thời cũng không có cách nào xác định được.
Thường Ngọc Tông thấy quân Giang Bắc đúng là rút lui thật, không khỏi ngạc nhiên nói: “Thất ca, đúng là bọn mọi rợ Nam Hạ rút lui thật.”
Thường Ngọc Thanh nghĩ nghĩ, rồi nói với Thường Ngọc Tông: “Ngươi chọn lấy một ít tướng sĩ khỏe mạnh truy kích phía sau quân Giang Bắc.”
Trong lòng Thường Ngọc Tông cảm thấy vô cùng kỳ lạ, thầm nghĩ quân Giang Bắc rời đi như vậy như vậy, ta thắp hương cầu trời khấn phật còn chẳng được, giờ lại còn truy kích bọn họ làm gì? Nhỡ đâu làm thế lại khiến bọn chúng quay lại thì sao? Chẳng lẽ lại đem ngót nghét một vạn tàn binh bại tướng chạy lên núi lần nữa? Lại nói viện quân Dự Châu đúng là sẽ đến, nhưng chúng ta là kẻ cầm quân đánh giặc, trong lòng đều biết điểm chí tử này, cho dù chúng ta có thể cầm cự đợi được viện quân, thì có đến ngàn cái miệng sợ là cũng không đủ thanh minh, tự mình làm đá kê chân cho kẻ khác, hỏi rằng có mệt hay không!
Thường Ngọc Tông do dự một chút rồi nói: “Nếu mọi rợ Nam Hạ cố ý lừa chúng ta mắc mưu thì làm sao bây giờ? Chúng ta xuống núi truy kích, chẳng phải sẽ rơi vào quỷ kế của bọn họ sao?”
Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, giải thích: “Ngươi chỉ đuổi theo nhưng không cần giao chiến, yên tâm, nếu quân Giang Bắc quay lại thì ngươi cứ đem binh quay trở về.”
Thường Ngọc Tông lại càng hồ đồ, hỏi: “Vì sao phải làm thế?”
Thường Ngọc Thanh quan sát quân Giang Bắc đang rút đi dưới núi, khẽ cười nói: “Người lắm mưu nhiều kế nhất định cũng là người đa nghi, ngươi truy kích ở phía sau, hắn tất nhiên nghĩ là ngươi cố ý dây dưa, sợ là sẽ càng chạy nhanh hơn.”
Tuy Thường Ngọc Tông bán tín bán nghi, nhưng cũng không dám trái ý thất ca, lập tức tuyển ra năm trăm tinh binh truy kích quân Giang Bắc. Trên đùi Thôi Diễn bị chém một đao, vốn đang ở trong trướng dưỡng thương, nghe được tin này liền vội vội vàng vàng tới tìm Thường Ngọc Thanh, vừa mở miệng đã kêu lớn: “Đại ca, cho ta dẫn quân đi truy kích!”
Thường Ngọc Thanh đang cẩn thận lau thanh chủy thủ của A Mạch, nghe vậy không buồn ngẩng đầu lên, chỉ thản nhiên nói: “Không được.”
Thường Ngọc Tông lại cả giận nói: “Còn muốn đuổi sao! Ngươi ba lần bảy lượt đều bị bắt, nếu không phải tại ngươi, thất ca sao phải chịu khốn đốn nhiều ngày như vậy, chúng ta cũng không bị thiệt hại mất mấy ngàn nhân mã, cũng không phải lưu lạc ở đây!”
Thôi Diễn gân cổ cãi: “Cái này đâu thể trách ta, ta đã sớm nói từ trước là cứ một đao chém quách Mạch Tuệ đi cho xong việc, nhưng đại ca…”
Thường Ngọc Thanh ngẩng phắt đầu lên nhìn Thôi Diễn, Thôi Diễn bị ánh mắt sắc bén của anh ta chiếu vào thì phát sợ, nửa câu nói còn lại mắc nghẹn trong cổ họng không sao thoát ra được, chỉ cúi đầu nhỏ giọng ngập ngừng nói: “Dù sao… cũng không thể trách một mình ta được.”
Thường Ngọc Thanh lại cúi đầu, chậm rãi lau thanh chủy thủ, nói: “Ngọc Tông, ngươi dẫn quân truy kích, nhớ lấy, không cần giao chiến.”
Thường Ngọc Tông lĩnh mệnh mà đi. Thôi Diễn liếc mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, thấy trên mặt anh ta không biểu lộ là vui hay giận, trong lòng càng hối hận, đang cân nhắc xem nên mở miệng như thế nào, lại nghe Thường Ngọc Thanh đột nhiên nói: “Ngươi nói đúng.”
Thôi Diễn sửng sốt, thận trọng nói : “Đại ca, kỳ thật…”
Thường Ngọc Thanh ngẩng đầu lên nhìn Thôi Diễn, khuôn mặt bình tĩnh nói: “Thật ra ngươi nói đúng, nếu ta vừa gặp liền giết nàng ngay thì đã không rơi vào quỷ kế của nàng, về sau cũng không xảy ra nhiều chuyện như vậy.” Thường Ngọc Thanh nhẹ nhàng đứng dậy, đi được vài bước, giơ thanh chủy thủ trong tay lên, xoay người cười nói với Thôi Diễn: “A Diễn, lần sau nếu ngươi thấy nàng, thì cứ thẳng tay mà giết.”
Thôi Diễn nhất thời trố mắt nói không ra lời……
Thịnh Nguyên mùa xuân năm thứ tư, quân Giang Bắc vây Nhạn Sơn không thành liền rút quân về hướng tây, ngoài dự đoán của mọi người, Thường Ngọc Tông vậy mà lại mang binh đuổi theo, đại tướng quân Vệ Hưng quân Giang Bắc nghĩ Thường Ngọc Tông cố ý muốn đeo bám theo nên cũng không để ý tới, chỉ mang binh quay về phía tây, tới một thành nhỏ là Thuận Bình liền cho đại quân nghỉ ngơi hồi phục. Ai ngờ vừa đến Thuận Bình được hai ngày, lại nhận được thánh chỉ từ triều đình.
Vệ Hưng cho gọi A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa vào trong trướng, đưa thánh chỉ ra, lúc này mới nói: “Vừa mới nhận được thánh chỉ trong triều, muốn chúng ta lập tức lui về Thái Hưng.”
Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nghe vậy đều sửng sốt, không khỏi hỏi: “Lui về Thái Hưng?”
“Không sai,” Vệ Hưng gật đầu, chậm rãi nói: “Triều đình và Bắc Mạc nghị hòa.”
“Ở Thái Hưng nghị hòa?” Đường Thiệu Nghĩa hỏi.
Vệ Hưng đáp: “Đúng vậy, cho nên muốn quân ta lập tức lui về Thái Hưng. Bắc Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa nên đã đồng ý cho đại quân của Chu Chí Nhẫn rút lui về phía bắc Thái Hưng, quân ta tiến vào thành Thái Hưng cùng quân giữ thành đợi sứ đoàn hai nước đến đó nghị hòa.”
A Mạch cụp mắt xuống không nói gì, nhưng trong lòng lại không ngừng dấy lên từng cơn sóng to gió lớn, nghị hòa, đúng là nhất định sẽ nghị hòa ư! Nếu nghị hòa, nàng làm sao có thể thay phụ thân đánh bại Trần Khởi? Nếu nghị hòa, hai năm vất vả liều mạng của nàng để làm gì? A Mạch đột nhiên nhớ tới trước khi đưa quân ra khỏi núi Ô Lan, Từ Tĩnh từng hỏi mình: “A Mạch, vì sao ngươi lại tòng quân?” A Mạch biết nếu nói là vì trung quân ái quốc sẽ không thể lừa được lão hồ ly Từ Tĩnh, đang muốn biên soạn một chút lý do hợp lý để trả lời Từ Tĩnh thì ông ta lại hỏi tiếp: “Nếu quân Giang Bắc ra trận mà không đánh, nếu quân Giang Bắc không còn tồn tại nữa, thì ngươi sẽ làm thế nào? Ngươi sẽ cảm thấy ra sao?”
A Mạch nhất thời bị ông ta hỏi vậy thì nghẹn họng lại nhìn trân trối, một nửa vùng Giang Bắc đều nằm dưới gót sắt của thát tử, vì sao ra trận mà lại không đánh? Quân Giang Bắc lập được nhiều chiến công, thanh thế đang vô cùng mạnh mẽ, sao lại không còn tồn tại nữa? Từ Tĩnh nhìn A Mạch nở nụ cười, nói: “Ngươi không cần trả lời ta, cứ tự mình suy nghĩ cho cẩn thận, ngày khác tất sẽ dùng đến.”
Lúc ấy, A Mạch còn có chút buồn bực không hiểu vì sao Từ Tĩnh lại hỏi những câu kỳ quái như thế, hiện giờ nghĩ lại, thì ra ông ta đã sớm đoán được là sẽ có chuyện ngày hôm nay.
Lại nghe Đường Thiệu Nghĩa căm phẫn nói: “Còn muốn nghị hòa ư? Chẳng lẽ chỉ cần bàn bạc là có thể khiến lũ thát tử tự mình rời khỏi Tĩnh Dương quan sao? Nếu không phải vì triều đình nghị hòa, thì từ năm thứ hai Thịnh Nguyên chúng ta đâu bị thát tử công phá cửa khẩu Tĩnh Dương! Hiện giờ thát tử đã chiếm một nửa vùng Giang Bắc của ta, trong triều lấy cái gì để cùng thát tử nghị hòa?”
Sắc mặt Vệ Hưng bình tĩnh, chỉ nhìn Đường Thiệu Nghĩa chằm chằm, lạnh lùng nói: “Quân lệnh như sơn!”
Đường Thiệu Nghĩa đón ánh mắt của Vệ Hưng, gằn từng tiếng đáp: “Tướng bên ngoài biên ải, quân lệnh có điều không thể nghe theo!”
Trong mắt Vệ Hưng lóe tinh quang, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Chẳng lẽ Đường tướng quân muốn kháng chỉ sao? Hay là muốn dấy binh tạo phản?”
Đường Thiệu Nghĩa bị Vệ Hưng hỏi thì nghẹn lời, anh ta từ nhỏ đã chịu sự giáo dục về một tinh thần trung quân ái quốc, hai tội danh lớn như vậy không khác gì sấm nổ bên tai, khiến anh ta không thể nói nên lời.
Vệ Hưng thấy Đường Thiệu Nghĩa không cách nào chống đỡ, lại nói tiếp: “Trong triều muốn nghị hòa cũng có đạo lý của họ, thủy quân của Chu Chí Nhẫn đã luyện thành, hùng cứ ở Thái Hưng, đối với Giang Nam khác nào hổ rình mồi, việc bình định Vân Tây vẫn chưa có kết quả, trong triều thật sự không có cách nào dụng binh từ hai mặt, Giang Bắc tuy có đại quân của chúng ta, nhưng chúng ta đang chịu cảnh bao vây và bị cô lập từ bốn phía, thật khó có thể tạo nên sự chuyển biến lớn. Ta thấy triều đình nghị hòa chẳng qua là kế sách thích ứng tạm thời mà thôi, thừa dịp quân ta vừa đánh bại hai lộ quân, trước mắt cứ tạm thời bảo tồn thực lực, đợi sau khi bình định Vân Tây xong sẽ bàn bạc kỹ hơn!”
Vệ Hưng nói xong, lại nhìn về phía A Mạch vẫn đang cúi đầu trầm mặc, hỏi: “Mạch tướng quân, ngươi thấy thế nào?”
A Mạch lập tức dấu đi cảm xúc trong mắt, ngẩng đầu đáp: “Đại tướng quân nói có lý, tình huống hiện giờ của quân ta quả thật không nên tiếp tục cùng thát tử đối kháng trực diện, nếu như có thể vào Thái Hưng nghỉ ngơi hồi phục, thật ra đối với quân ta chỉ có lợi chứ không có hại!”
Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy thì vô cùng sửng sốt, còn Vệ Hưng thì mừng rỡ, khen A Mạch đôi câu, lại quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, hỏi: “Ý Đường tướng quân thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa nhẫn nhịn, hướng về phía Vệ Hưng ôm quyền nói: “Mạt tướng tuân theo sự sắp sếp của đại tướng quân!”
Vệ Hưng cười cười, hạ lệnh đại quân sau khi tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, liền xuất phát tiến về Thái Hưng.
Đường Thiệu Nghĩa từ chỗ của Vệ Hưng đi ra, sắc mặt vẫn không tốt, cũng không để ý tới A Mạch, chỉ bước nhanh ở phía trước. A Mạch đuổi theo mấy bước tiến lên ngăn Đường Thiệu Nghĩa lại, kéo anh ta đến một chỗ không có người, lúc này mới thử hỏi: “Đại ca, chẳng lẽ ngươi muốn tạo phản?”
Đường Thiệu Nghĩa nghe xong cả giận: “A Mạch, tại sao ngươi cũng hỏi như thế?”
A Mạch trong lòng hơi thất vọng, trên mặt cũng không biểu lộ ra, chỉ khuyên nhủ: “Huynh không muốn tạo phản, thánh chỉ cũng đã đến, huynh còn muốn như thế nào nữa? Chẳng lẽ kháng chỉ sao? Nhưng đó lại là tội danh chu di cửu tộc.”
Đường Thiệu Nghĩa nghiêm nghị nói: “Diệt trừ thát tử, khôi phục lại non sông là bổn phận của ta, tận trung báo quốc đâu lý nào lại sợ chết!”
A Mạch lại nói: “Không chịu tuân theo quân lệnh đó chính là kháng chỉ, vì thế cũng vẫn tạo mối nghi là có mầm phản loạn, về sau nếu có đuổi thát tử ra khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương thì cũng sẽ bị tru di cửu tộc. Huynh có thể không sợ chết, nhưng thân nhân gia quyến đại tướng quân đều ở Thịnh Đô, huynh muốn anh ta phải làm thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa biết A Mạch nói có lý, nhưng trong lòng vẫn tức giận, dùng chân đá một cước vào góc tường, không cam lòng nói: “Nghị hòa như vậy thật khiến cho người ta phải uất nghẹn!”
A Mạch lo nghĩ, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, nếu triều đình đem vùng Giang Bắc giao cho thát tử, thì huynh tính thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa không nghĩ đến vấn đề này, lập tức có chút kinh ngạc, hỏi lại A Mạch: “Triều đình đâu thể nào đem Giang Bắc giao cho thát tử? Nếu như vậy, thì quân Giang Bắc của chúng ta phải làm sao bây giờ?”
A Mạch lạnh nhạt đáp: “Nếu như tặng thật, có lẽ sẽ điều quân Giang Bắc về phía nam.” Nàng đưa mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa, tiếp tục hỏi: “Đại ca, huynh sẽ tính thế nào? Có theo quân đi về phía nam không?”
Đường Thiệu Nghĩa không rõ A Mạch vì sao phải kiên trì hỏi vấn đề này, chỉ yên lặng nhìn A Mạch, kiên định đáp: “Nếu triều đình thật sự muốn nhượng lại vùng Giang Bắc cho thát tử, ta liền từ quan không làm nữa, ở lại Giang Bắc chiêu tập tráng sĩ có chí khí phất cờ khởi nghĩa, diệt trừ thát tử!”
Nghe anh ta trả lời như vậy, trong lòng A Mạch hơi có chút an ủi, trên mặt không khỏi khẽ mỉm cười, Đường Thiệu Nghĩa nhất thời nhìn đến thất thần, chờ đến khi A Mạch gọi một hồi anh ta mới hồi phục lại tinh thần, lập tức thẹn thùng, vội dời tầm mắt đi, có chút bối rối hỏi A Mạch: “Ngươi thì sao? A Mạch, ngươi sẽ làm thế nào?”
A Mạch lại nhướn mày, cười nói: “Ta khó khăn lắm mới làm được tới chức quan này, đâu thể dễ dàng từ bỏ như vậy!”
Nhiệt tình đầy ắp của Đường Thiệu Nghĩa không khác gì bị A Mạch hắt cho một bát nước lạnh, trong lòng chỉ cảm thấy vô cùng lạnh lẽo, cố gắng mỉm cười, nói: “Mỗi người một chí hướng.”
A Mạch thấy thần sắc trên mặt Đường Thiệu Nghĩa thay đổi, biết trong lòng anh ta đang thất vọng đến cực điểm, cũng không nói toạc ra, chỉ cười nói: “Được rồi, đại ca, đừng vội nghĩ về chuyện sau này sẽ như thế nào nữa, cứ chờ đến khi quay trở lại Thái Hưng xem tình hình thế nào đã rồi nói sau.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét