5 thg 8, 2014

A Mạch tòng quân - Chương 107-108

THANH CHÂU

Kỳ thật cũng chẳng thể trách Thường Tu An cảm thấy tức giận, quân Giang Bắc đi qua nơi nào thì nơi ấy chẳng khác gì vừa gặp đại dịch châu chấu, thế thì làm gì có ai không cảm thấy tức giận? Đừng nói ông ta, mà ngay cả thống soái A Mạch của quân Giang Bắc, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng chỉ huy người khuân khuân, vác vác, trong mắt cũng không khỏi bốc hỏa. Đợi đến khi có hai tên lính khuân nồi niêu xoong chảo đi ngang qua nàng, A Mạch thật sự không nhịn được nữa, đưa tay cản hai tên lính kia lại, hết chỉ cái này lại chỉ cái kia hỏi Lý Thiếu Hướng: “Đây là cái gì?”

“Nồi a.” Lý Thiếu Hướng cười tủm tỉm đáp.

A Mạch hít sâu một hơi, lúc này mới nói: “Ta biết đây là nồi, là ta hỏi ngươi, ngươi cho người xách mấy cái nồi rách này về để làm gì?”

Nghe A Mạch hỏi thế, Lý Thiếu Hướng trợn tròn mắt, lấy tay chỉ vào mấy cái nồi, kêu lên một cách rất khoa trương: “Đại nhân, đây chính là sắt đấy! Nấu chảy ra làm thành cái gì chả được!”

A Mạch nghẹn lời không thể nói được gì, chỉ đành phẩy phẩy tay áo, ý bảo anh ta mau cho người đem nồi sắt đi. Nồi thủng vừa mang đi, phía sau lại có binh lính ôm một lá cờ Bắc Mạc lại. A Mạch chẳng qua mới nhìn lướt qua, Lý Thiếu Hướng lập tức cầm lấy lá cờ kêu lên: “Đại nhân, ngài sờ thử chất vải này mà xem, rất mềm mại, nếu không thể đem về nhà làm yếm cho thê tử, thì có thể để cho mọi người làm…”

“Ngừng!” A Mạch thật sự không có cách nào có thể tưởng tượng ra mình lại đem lá cờ Bắc Mạc kia mặc lên người, đành phải vội vàng nói: “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm như thế đi!”

Lý Thiếu Hướng giả dối cười cười, quay đi tiếp tục kiểm kê chiến lợi phẩm. A Mạch không còn hứng thú xem tiếp, quay lại tìm thủ thành Thanh Châu là tướng Tiết Vũ. Người này vốn là một viên tướng tâm phúc của Thương Dịch Chi, năm thứ hai Thịnh Nguyên, Thương Dịch Chi từ Thanh Châu đi cứu viện Thái Hưng, đã lệnh cho anh ta lưu lại trấn giữ Thanh Châu, đến nay đã được hơn hai năm, cuối cùng không đợi được Thương Dịch Chi đến, mà lại là Mạch Tuệ và quân Giang Bắc.

Vốn đã nhận được lệnh từ trước của Thương Dịch Chi, A Mạch vừa vào Thanh Châu, Tiết Vũ đã đem toàn bộ quân vụ thành Thanh Châu giao cho A Mạch. A Mạch tiếp quản Thanh Châu, song vẫn rất tín nhiệm Tiết Vũ, việc canh phòng thành trì phần nhiều vẫn dùng những tướng lãnh cũ của Thanh Châu. Kể từ đó, công việc phòng ngự tiến hành thật sự thuận lợi, chỉ qua một, hai ngày, quân coi giữ tường thành Thanh Châu đều đổi thành quân Giang Bắc.

A Mạch đang cùng Tiết Vũ thương nghị hủy bỏ chế độ hai quân đội để sáp nhập thành một đội quân duy nhất, Vương Thất, tạm lĩnh chức đội trưởng thám báo quân Giang Bắc, từ bên ngoài bước nhanh vào, nói: “Thường Ngọc Thanh đã lui binh.”

A Mạch và Tiết Vũ đều ngẩng đầu lên nhìn Vương Thất, trên mặt Vương Thất vẫn còn lưu lại một tia hưng phấn, nói với A Mạch: “Đúng như đại nhân dự liệu, hai vạn kỵ binh của Thường Ngọc Thanh và mấy ngàn tàn binh của cũng Thường Tu An đã nhổ trại theo hướng tây bắc đi về phía thành Võ An.”

Thành Võ An, cách thành Thanh Châu cùng lắm chỉ hơn một trăm tám mươi dặm, từ Thanh Châu đi về phía tây bắc tất yếu phải qua nơi này.

Tiết Vũ quay đầu nhìn A Mạch, trong ánh mắt hiện lên vài phần khâm phục, lên tiếng hỏi: “Thường Ngọc Thanh quả thật muốn tính đánh lâu dài?”

A Mạch đáp: “Thường Ngọc Thanh là người dũng mãnh nhưng không lỗ mãng, trong tay không đủ binh mã tất nhiên sẽ không dám manh động tấn công Thanh Châu. Huống chi Trần Khởi trước hết phải bình định Ung, Dự, lại vừa muốn đưa tiểu hoàng đế hồi kinh, nhất thời cũng không thể điều thêm quân cho anh ta. Anh ta cũng sợ chúng ta ra khỏi thành đánh lén, nên phải tìm một nơi đóng quân vững chắc đã!”

Tiết Vũ hỏi: “Vậy chúng ta phải đối đãi lại như thế nào?”

A Mạch cười, nói: “Nếu anh ta không công thành, chúng ta trước mắt cũng chẳng cần phải để ý tới anh ta, cứ làm tốt những việc trong thành đã rồi nói sau.” A Mạch quay đầu nhìn Vương Thất phân phó: “Ngày mai triệu tập các đội trưởng trong quân mở đại hội, quán triệt quân kỷ, quân pháp nghiêm minh, phàm kẻ nào dám quấy nhiễu dân chúng, bất luận chức quan hay lai lịch là gì, chỉ có một chữ ‘Trảm’!”

Vương Thất gật đầu: “Đã rõ!”

A Mạch lại hướng Tiết Vũ nói: “Thanh Châu vốn đã bị triều đình cắt nhượng cho thát tử, thỉnh Tiết tướng quân cho người đem chuyện này lan truyền ra bên ngoài, nói gian thần trong triều vì muốn bảo vệ phú quý của bản thân đã xúi giục hoàng đế bỏ rơi Thanh Châu. Sau đó lại tuyên truyền về sự tàn bạo của thát tử, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong thành.”

Tiết Vũ chưa kịp lên tiếng đồng ý, Vương Thất đột nhiên nói xen vào: “Thát tử vốn rất tàn bạo, sao còn phải tuyên truyền!”

A Mạch cười hỏi: “Sao ngươi nói thát tử tàn bạo? Trần Khởi ở Dự Châu không hề tơ hào đến bất cứ thứ gì của dân, lại đối đãi với người Nam Hạ không có gì bất đồng so với người Bắc Mạc.”

Vương Thất hừ lạnh một tiếng, mắng: “Không tơ hào cái chó gì! Không tơ hào thì tại sao thành Hán Bảo lại thành thành hoang? Cái gì mà đối đãi không bất đồng? Nếu thế thì ba mươi năm trước, khi xâm chiếm chúng ta cũng đã không đối đãi như thế!”

Sắc mặt A Mạch trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát rồi mới tiếp tục nói: “Hán Bảo cách Thanh Châu quá xa, ba mươi năm trước cũng đã trôi qua quá lâu rồi, khó tránh khỏi sẽ có những người không nhìn thấy, không nhớ nổi, nên sẽ ảo tưởng rằng có thể sống yên ổn qua ngày dưới gót sắt của dị tộc.”

Trong phòng, ba người đều trở nên trầm mặc, A Mạch phục hồi lại tinh thần, giao cho Vương Thất xử lý thêm vài công vụ nữa, Vương Thất lĩnh mệnh mà đi, trong phòng lại chỉ còn lại A Mạch và Tiết Vũ. A Mạch cẩn thận cân nhắc, lại nói với Tiết Vũ: “Tuy quân ta vì chống lại thát tử, nhưng trong triều chưa chắc đã nghĩ như vậy, không quá mấy ngày nữa, có lẽ sẽ tuyên bố chúng ta là quân phản loạn, đến lúc đó chỉ sợ chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai bề thụ địch! Phía trước đã bị Thường Ngọc Thanh phong kín, phía sau là khe núi Phi Long thì chúng ta lại chưa kịp chuẩn bị.”

Tiết Vũ vốn đã nghĩ tới điều này, nên trước khi quân Giang Bắc đến đã tiến hành an bài rồi, nghe A Mạch nhắc đến, tinh thần theo đó mà rung lên, nói: “Thuộc hạ cũng đã nghĩ đến điều này, nên những cửa ngõ trong núi Phi Long đều đã tăng cường phòng thủ. Hơn nữa,” trên mặt Tiết Vũ lộ ra vẻ đắc ý, nói: “Trước đó vài ngày, thuộc hạ đã trưng thu lương thảo của mấy quận huyện ở phía đông, đồng thời chiêu mộ thêm không ít tráng đinh, tất cả đều có thể sung quân.”

A Mạch nghe xong khen: “Tiết tướng quân quả nhiên có tài tướng soái, không hổ Thương soái nhiều lần khen ngợi.”

“Đại nhân quá khen, thật không dám nhận!” Tiết Vũ vội vàng nói. Khi Thương Dịch Chi còn ở Thanh Châu, anh ta chỉ là một viên tướng giữ thành, hai năm nay mặc dù tạm giữ chức tướng thủ thành, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng mà thôi, hiện được A Mạch khen anh ta là tướng soái có tài, bất giác có chút ngượng ngùng, trên mặt thoáng đỏ ửng, nhưng trong mắt cũng không dấu được tia kích động.

A Mạch nhìn thấy liền hiểu, còn nói thêm: “Quân Giang Bắc khổ chiến cùng thát tử đã lâu, biên chế trong quân đã không còn đầy đủ, nay cùng quân Thanh Châu kết hợp làm một, cũng nên tìm cách bù đắp những vị trí còn khuyết thiếu này.”

Tiết Vũ không phải kẻ ngốc, chỉ vừa nghe A Mạch nói vậy liền hiểu ngay, lập tức đáp: “Lý nào lại như thế, mọi người cứ theo năng lực mà giữ các chức vụ khác nhau, quân ta cũng rất nhanh mà trở nên lớn mạnh.”

A Mạch hỏi: “Không biết Tiết tướng quân có thể tiến cử người tài giỏi nào không?”

Tiết Vũ biết A Mạch hỏi vậy chính là muốn mình tiến cử người thân tín, tâm phúc, bất giác có chút động tâm, nhưng sau khi cân nhắc cẩn thận liền nói: “Tướng lĩnh trong thành đều do Thương soái sử dụng trước đây, đều là người trung hậu thật thà, nên sẽ toàn tâm toàn ý nghe theo sự an bài của đại nhân.”

A Mạch thản nhiên cười, nói: “Nếu đã như vậy, trước hết đều thăng mỗi viên quan lên một cấp, sau đó xét theo sở trường của mỗi người mà sắp xếp trong quân Giang Bắc.”

Tiết Vũ có chút không thể tin được nhìn A Mạch, lại nghe nàng nói tiếp: “Tiết tướng quân, ngươi và ta trước kia tuy đều là thủ hạ của Thương soái, lại vô duyên vô cớ kết thành cộng sự, khó tránh khỏi có điều chưa hiểu rõ về nhau. Song về sau qua tiếp xúc lâu dài, thì dần dần cũng sẽ hiểu.”

Trên mặt A Mạch lộ ra ý cười hoà thuận vui vẻ, chân thành ấm áp, thần thái tinh anh không hề giảm sút, Tiết Vũ nhìn mà nhất thời có chút giật mình.

Cho đến buổi chiều, khi trở về trong phủ của mình, trong đầu Tiết Vũ thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh A Mạch ôn hòa tươi cười mà không sao nắm bắt được A Mạch rốt cuộc có tâm tư gì! Thê tử của ông ta là Uông Thị tiến đến giúp ông ta cởi giáp, đuổi nha hoàn ra ngoài, vừa tự tay cởi tấm bảo vệ tay, vừa nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay mọi việc thế nào? A Mạch tướng quân đã quyết định chức quan cho chàng rồi phải không?”

Tiết Vũ khẽ gật gật đầu.

Uông Thị vội thấp giọng hỏi: “Là chức quan gì?”

Tiết Vũ đáp: “Tả phó tướng quân Giang Bắc.”

Uông Thị nghe xong thất vọng, nhịn không được than thở nói: “Vẫn là phó tướng à, còn tưởng rằng lần này có thể thăng lên làm trưởng quan chứ!”

Tiết Vũ không khỏi chau mày, trợn mắt quát: “Nàng là nữ nhân thì biết cái gì! Phó tướng thành Thanh Châu há có thể so với Tả phó tướng quân Giang Bắc sao!”

Uông Thị cũng chẳng sợ dáng vẻ trừng mắt hung dữ của trượng phu, nhẹ nhàng bĩu môi, nói: “Cái gì mà quân Giang Bắc với chả không quân Giang Bắc, thiếp thấy còn chẳng bằng làm phó tướng thành Thanh Châu, chúng ta đều là người Thanh Châu, nơi này núi cao hoàng đế ở xa, chủ tướng lại không có ở trong thành, chẳng phải đều do chàng định đoạt hay sao! Đột nhiên mở rộng cổng thành nghênh đón quân Giang Bắc, hiện giờ nhìn lại thì có vẻ chức quan của chàng cao hơn trước, nhưng thực ra chẳng phải là chàng đã bị mất quyền lực rồi hay sao!”

Tiết Vũ im lặng không nói gì, quân Giang Bắc vốn do hai quân Thanh, Dự hợp thành, vì vậy không hề thiếu những cựu binh Thanh Châu, sau hai năm chinh chiến trở về, việc thăng chức của họ vốn nhanh hơn so với ông ta ở lại canh giữ Thanh Châu.

Uông Thị liếc mắt nhìn thần sắc trên mặt trượng phu, lại nói tiếp: “Chúng ta giơ đầu gánh tội danh phản quốc mà nghênh đón quân Giang Bắc vào thành, sớm biết như thế chi bằng nghe theo sự an bài của triều đình mà rút khỏi Thanh Châu, đem nơi này giao cho thát tử. Ký Châu so với Thanh Châu không chỉ mạnh hơn gấp trăm lần, lại nói Tiếu lão tướng quân vốn là di phu của chàng, chẳng lẽ lại bạc đãi chàng hay sao? Cho dù vẫn làm phó tướng……”

Lời còn chưa dứt, Tiết Vũ đột nhiên đẩy mạnh Uông Thị ngã xuống đất. Uông Thị nhất thời bị quẳng xuống đất mà choáng váng, chằm chằm nhìn trượng phu, hỏi: “Chàng! Thế này… Là sao chứ?”

Trên mặt Tiết Vũ lạnh băng, nghiến răng mắng: “Ngươi là phụ nữ đã có chồng mà không biết giữ mồm giữ miệng, ta sớm muộn gì cũng phải cắt lưỡi ngươi!”

Uông Thị và Tiết Vũ thuở nhỏ là thanh mai trúc mã, từ lúc thiếu niên đến giờ đã kết thành vợ chồng, chưa từng bị trượng phu mắng cay độc như vậy, trong lúc nhất thời vừa thẹn vừa giận, xoay người nằm dưới đất òa khóc, vừa khóc vừa mắng: “Chàng ở bên ngoài bị người ta làm cho uất giận mà không dám lên tiếng, về nhà lại trút lên đầu thiếp, như thế mà gọi là đàn ông sao!”

Tiết Vũ lại tức giận đến sắc mặt xanh mét, đưa mắt nhìn về phía cửa phòng, lại cúi lưng hạ giọng nói tiếp với Uông Thị: “Nàng nếu muốn sớm thành quả phụ, thì cứ việc khóc, cứ việc mắng cho lớn tiếng vào, khiến cho cả thành Thanh Châu đều đồn ầm lên rằng Tiết Vũ ta là kẻ đầu hàng thát tử!”

Uông Thị mặc dù có chút ngang bướng, nhưng không phải là một thôn phụ ngu muội, vừa nghe trượng phu nói vậy, nàng nhất thời cả kinh, lập tức dừng khóc, ngẩng đầu nhìn trượng phu, thấy sắc mặt Tiết Vũ vẫn vô cùng giận dữ, không hề có ý sẽ đỡ mình dậy, liền tự mình đứng lên.

Tiết Vũ nói xong, cũng không buồn để ý tới Uông Thị, xoay người sang chỗ khác tự mình cởi áo giáp trên người. Uông Thị từ phía sau Tiết Vũ cởi thắt lưng, áo giáp giúp chồng, mềm giọng nói: “Tứ lang đừng tức giận, là thiếp sai rồi.”

Uông Thị có một điểm tốt, đó là có lúc thì rất ngang bướng nhưng cũng có thể mềm mại uyển chuyển được. Mấy lời vừa rồi khiến Tiết Vũ cũng không thể tiếp tục làm mặt lạnh với nàng nữa, chỉ nói: “Nàng là phụ nữ, kiến thức nông cạn! Nếu Thanh Châu mà mất thì Ký Châu còn có giữ được sao? Lại nói nếu ta chống lại thát tử khôi phục non sông, sau này chẳng phải sẽ được an nhàn mà hưởng phú quý hay sao!”

Uông Thị cũng là phì cười một tiếng, nói: “Vâng, vâng, Tiết tứ lang là đại anh hùng trung can nghĩa đảm, vì nước vì dân, thiếp tóc dài nhưng trí ngắn, chàng còn nổi giận với thiếp làm gì?”

Lời này nói ra khiến Tiết Vũ không khỏi xoay chuyển tâm tư, quay người lại nhìn Uông Thị, dịu dàng hỏi: “Vừa rồi cũng là nhất thời tức giận, nàng có đau không?”

Uông Thị lúc này lại cảm thấy vô cùng ủy khuất, đôi mắt cũng đỏ hoe, nhưng không khóc, chỉ nói: “Tứ lang còn biết quan tâm xem thiếp có đau hay không ư, vừa rồi chẳng phải chàng còn hận không thể lấy kiếm mà đâm thiếp hay sao.”

Tiết Vũ thấp giọng an ủi Uông Thị vài câu, rồi nói: “Nàng không biết đấy thôi, trong triều cắt đất nghị hòa cũng là bất đắc dĩ, Thanh Châu là nơi cửa ngõ hiểm yếu, thật sự không thể giao cho thát tử. Nhưng lại bị thát tử bức bách đến không còn cách nào khác, nên bề ngoài đành phải thượng cho thát tử, nhưng bên trong thì âm thầm dung túng cho quân Giang Bắc chiếm lấy Thanh Châu, chống lại thát tử. Nếu không, Thanh Châu là nơi đất bạc, dân nghèo, chỉ cần Ký Châu cắt đứt nguồn cung ứng lương thảo thì không cần đánh, thành này cũng bị phá. Quân Giang Bắc đã phản Thái Hưng hơn một tháng, vì sao không thấy Ký Châu có chút động tĩnh gì? Trước đó vài ngày, ta đã đi mấy quận huyện phía đông trưng thu lương thảo và tráng đinh, di phu(1) đều làm bộ như không thấy, không biết.”

Uông Thị chần chờ một lát, hỏi: “Nói như vậy, hoàng đế cũng không phải là kẻ hồ đồ ?”

Tiết Vũ lạnh lùng cười, nói: “Có thể lên làm hoàng đế, thì còn hồ đồ được sao? Chỉ là trước mắt không thể làm khác được mà thôi. Hơn nữa quân Giang Bắc lại giương cao lá cờ chống thát tử, Mạch tướng quân đến giờ cũng chỉ xưng là tướng quân, mà không tự phong là nguyên soái, nên cũng không mang danh mưu phản.”

Uông Thị nghe cũng minh bạch được vài điều, nhưng phần lớn là chẳng hiểu gì, nghe nói A Mạch thật ra cũng chỉ là một tướng quân, trong lòng nhất thời cân bằng lại, vì thế liền nói: “Thôi, Tứ lang đừng nói chuyện quan trường với thiếp nữa, thiếp nghe mà đau hết cả đầu.”

Tiết Vũ đã thay xong thường phục, xoay người ngồi xuống ghế, cười nói: “Nàng nhớ cho kỹ, cho dù chúng ta có giao thành Thanh Châu cho thát tử, đến Ký Châu có di phu chiếu cố, thì chưa chắc đã tốt.”

Uông Thị cười cười, lại tiến lên nhẹ nhàng xoa bóp bả vai trượng phu, cười hỏi: “Nếu Tứ lang đều đã nhìn thấu như vậy, sao còn mang bộ mặt như thế trở về?”

Tiết Vũ nghĩ nghĩ, thấp giọng nói: “Vì vừa rồi Mạch tướng quân bỗng nhiên lại hỏi ta có thể tiến cử người thân tín hay không, ta sợ anh ta là cố ý thử ta, cũng không dám nhiều lời, không ngờ anh ta lại thăng chức cho tất cả các viên quan trong quân Thanh Châu lên một cấp, rồi căn cứ theo năng lực mà an bài chức vụ. Người này… thật khiến cho người ta không thể đoán ra tâm tư.”

Uông Thị cũng cười nói: “Tứ lang trung thành với chủ, thành tâm làm việc, nghiền ngẫm tâm tư của anh ta làm gì? Anh ta tâm cơ có thâm trầm đến mấy thì liệu có thể bằng Thương soái được không? Tứ lang chẳng phải vẫn được Thương soái tín nhiệm trọng dụng hay sao! Theo thiếp thì chàng chẳng cần phải cân nhắc này nọ làm gì, không dò được tâm tư thì đừng dò nữa, anh ta cho chàng làm gì thì chàng cứ làm cái đó là được rồi! Về lâu về dài, tự anh ta sẽ hiểu được cách làm người của Tứ lang!”

Uông Thị nói một hồi khiến trong lòng Tiết Vũ trở nên minh bạch sáng tỏ, liền kéo Uông Thị ôm vào lòng, khen: “Đúng là đạo lý này, chỉ có nàng là hiểu được!”

Uông Thị tươi cười đắc ý, nhãn châu chuyển động, ghé miệng sát đến bên tai Tiết Vũ thấp giọng hỏi: “Nghe nói Mạch tướng quân so với Thương soái dáng vẻ còn tuấn tú hơn, có phải thật không?”

Tiết Vũ trước mắt lại thoáng hiện lên hình ảnh A Mạch với nụ cười ấm áp trên môi, không khỏi gật đầu. Trong giọng nói của Uông Thị liền để lộ ra vẻ hưng phấn, nói: “Nhưng vẫn chưa có thê thất? Không bằng đem Tố Lan nhà chúng ta gả cho anh ta đi!”

“Hả!” Tiết Vũ sợ tới mức cả kinh, đưa tay đẩy Uông Thị từ trên đùi đẩy ra, giáo huấn: “Nàng lại muốn giật dây làm loạn gì vậy!”

Uông Thị bất mãn bĩu môi, nói: “Tố Lan là muội tử của chàng, cũng không phải của thiếp, thiếp đây mới không phải là cố sức lấy lòng! Hơn nữa,” Uông Thị vẫn chưa từ bỏ ý định, lại khuyên: “Hai năm trước, khi Thương soái vẫn còn ở đây, thì Tố Lan hãy còn nhỏ, nay vừa đến tuổi cập kê, dáng vẻ lại xinh đẹp, chẳng phải rất xứng với Mạch tướng quân tuổi trẻ tuấn tú hay sao?”

Tiết Vũ nghe thê tử nói thế liền tâm động, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Nàng đừng gấp, vạn nhất không thành thì thật mất mặt, việc này để ta âm thầm điều tra trước đã rồi nói sau.”

Uông Thị biết trượng phu nói có lý, gật đầu, cười nói: “Thiếp nghe lời chàng.”

————————
Chú thích:
1- Di phu: chồng của chị/em gái của mẹ.

TÌNH THẾ
Cuối tháng chín, trước áp lực của Bắc Mạc, Nam Hạ tuyên bố quân Giang Bắc là quân phản loạn, song cũng không xuất binh chinh phạt. Đối diện với sự chất vấn, khiển trách của sứ thần Bắc Mạc, viên quan Nam Hạ hai tay buông xuôi vô lực, vẻ mặt bất đắc dĩ nói: Trời thì ban mưa xuống, con gái lớn thì phải lấy chồng, đây đều là những việc mà triều định không thể quản được! Quân Giang Bắc không nghe lời muốn tạo phản, chúng ta cũng không có biện pháp, đúng không? Thanh Châu nếu đã giao cho các ngươi, các ngươi cứ tự mình đi đánh là được, chẳng phải các ngươi còn mấy vạn binh ở Võ An sao? Có Sát tướng Thường Ngọc Thanh ở đó nữa mà, thế thì làm gì có thành nào mà không hạ được a!

Sứ giả Bắc Mạc bị những lời vô sỉ của viên quan Nam Hạ này làm cho tức giận đến nỗi gân xanh nổi đầy mặt, hận không thể tiến lên túm lấy anh ta đánh cho một trận rồi nói sau. Chẳng qua làm công việc của sứ thần này, kiêng kị nhất chính là cùng người khác động thủ, vì thế chỉ có thể cố gắng nén lại, đem tình hình trình tấu lên triều đình Bắc Mạc.

Đợi đến khi đám người Thường Ngọc Thanh ở Võ An biết được tin này thì đã là tháng mười, Thường Ngọc Tông còn chưa nói gì, Thường Tu An thân là trưởng bối nhất tuổi nhất đã vùng đứng dậy mắng: “Bà nội nó! Lũ mọi rợ Nam hạ này không phải muốn đùa giỡn chúng ta sao, nói là đem Thanh Châu giao cho chúng ta, hiện giờ lại bị phản quân của anh ta chiếm mất, lại còn bảo chúng ta phải tự mình đi đánh, thế thì còn ký hòa ước cái cứt chó gì nữa! Mọi rợ Nam Hạ, các ngươi cứ chờ đấy, chờ lão tử đánh hạ Thanh Châu, chẳng lẽ không thuận đường thu thập luôn Ký Châu hay sao!”

Thấy tam thúc kích động như thế, Thường Ngọc Tông ngược lại không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, hỏi: “Chẳng lẽ quân Giang Bắc đến Thanh Châu thật sự là do triều đình Nam Hạ đã sớm thương lượng trước rồi sao?”

Thường Ngọc Thanh nghĩ rồi lắc đầu, khẽ cười nói: “Chưa chắc.”

Thường Tu An và Thường Ngọc Tông đều thấy khó hiểu. Thường Ngọc Thanh thấy hai người bọn họ đều có vẻ mặt nghi nghi hoặc hoặc, đành phải giải thích: “Nếu bọn họ đã sớm thương lượng tốt, thì Thương Dịch Chi sau khi hồi triều sẽ không bị chèn ép, quấy nhiễu như vậy.”

Thường Ngọc Thanh nói không sai, sau khi Thương Dịch Chi trở về liền bị hoàng đế Tề Cảnh hoài nghi, nên vẫn chưa được tin dùng. Lâm tể tướng lại dâng một tấu chương chỉ đích danh Thương Dịch Chi đã âm thầm dung túng binh lính mưu phản, khiến Thương Dịch Chi vừa về đến Thịnh Đô đã bị đặt vào cảnh đầu sóng ngọn gió.

Đầu tiên, quân Giang Bắc vốn xem như do Thương Dịch Chi thành lập, mặc dù Thương Dịch Chi đã thoát ly quân Giang Bắc, nhưng khó tránh khỏi có ngàn vạn mối dây liên hệ. Thứ đến, nếu do Vệ Hưng mang binh tạo phản thì cũng thôi, nhưng đằng này lại do Mạch Tuệ một đao giết chết Vệ Hưng rồi dấy binh tạo phản, rõ ràng là không chịu thừa nhận Vệ Hưng là nguyên soái. Lại nữa, phản quân Giang Bắc sau khi ra khỏi Thái Hưng đi đâu chẳng đi, mà lại thẳng tiến đến Thanh Châu, mà tướng Tiết Võ thủ thành Thanh Châu cũng lại mở rộng cửa thành đón quân Giang Bắc tiến vào. Thanh Châu là nơi nào? Chính là nơi Thương Dịch Chi coi giữ trước đây nha!

Cái khác tạm thời không nói đến, chỉ với ba điểm này, Tề Cảnh không thể không đem lòng nghi ngờ quân Giang Bắc làm phản có sự sai khiến của Thương Dịch Chi. Chỉ có một điều khiến cho ông ta không thể nghĩ ra được là vì sao Thương Dịch Chi phải làm như vậy? Đã làm như vậy rồi sao còn trở lại Thịnh Đô?

Tề Cảnh nhất thời cũng có chút nghi hoặc, chẳng qua ông ta còn chưa làm gì Thương Dịch Chi, thì mẫu thân của Thương Dịch Chi là Thịnh Hoa Trưởng công chúa đã động thủ trước, trực tiếp mang Thương Dịch Chi vào cung yết kiến, đợi gặp Tề Cảnh, Trưởng công chúa vốn là người yểu điệu mảnh mai, chỉ một cái tát liền đem con quỳ gối xuống trước mặt Tề Cảnh, sau đó khóc sướt mướt hướng về phía Tề Cảnh cầu xin: “Hoàng Thượng thay ta quản tiểu súc sinh này đi.”

Tề Cảnh thấy Trưởng công chúa đột nhiên vừa đến đây đã như vậy, đành phải hỏi là đã xảy ra chuyện gì, Trưởng công chúa lúc này mới vừa khóc vừa kể nói: “Quân Giang Bắc đến Thanh Châu đúng là do tiểu súc sinh này cho chủ ý, còn viết thư cho Tiết Võ ở Thanh Châu, để anh ta mở cửa thành cho quân Giang Bắc vào.”

Tề Cảnh lông mày nhíu chặt, lạnh lùng nhìn Thương Dịch Chi, lạnh giọng hỏi: “Việc này là thật sao?”

Thương Dịch Chi quỳ thẳng tắp, vẻ mặt quật cường, ngẩng đầu nhìn Tề Cảnh, cao giọng đáp: “Thát tử bức chúng ta ngay cả Thanh, Ký châu cũng phải cắt, trong lòng thần thật sự rất khó chịu, vừa lúc Vệ Hưng lén tìm thần hỏi việc nghị hoà, thần hỏi anh ta vài câu. Vệ Hưng cũng hận thát tử thấu xương, chúng thần tính toán nửa ngày liền nghĩ ra một cách, đó là giả đem Thanh Châu cấp cho thát tử để thỏa mãn lòng tham của chúng, đợi sau khi hòa ước ký kết xong, quân Giang Bắc giả kháng chỉ không tuân theo hiệu lệnh, tạo phản ở Thái Hưng, sau đó chiếm cứ Thanh Châu cùng thát tử giằng co. Đến lúc đó triều đình chối phắt đi rằng không có mối liên hệ với quân Giang Bắc. Vậy nên, thần đã viết một phong thư cho Tiết Võ giao cho Vệ Hưng.”

“Vậy vì sao lại giết Vệ Hưng?” Tề Cảnh hỏi, sắc mặt mặc dù bình thản, nhưng thanh âm lại lạnh đến thấu xương.

Thương Dịch Chi cúi đầu, thấp giọng đáp: “Thần cũng không biết, quân Giang Bắc làm phản ra khỏi Thái Hưng vốn do thần và Vệ Hưng hai người cùng hợp mưu, chẳng may khi rơi vào mắt người khác lại thành đại tội mưu phản nên hai chúng thần không dám để cho người khác biết, vì vậy thương nghị chờ thần quay về Thịnh Đô sẽ mật tấu lên Hoàng Thượng, ai ngờ vừa về đến Thịnh Đô lại nghe được tin Vệ Hưng bị Mạch Tuệ giết chết, thần lập tức tỉnh mộng, lại nhớ đến phong thư thần viết cho Tiết Võ, vội vàng phái người đến Thanh Châu truyền tin, ai ngờ vẫn chậm hơn Mạch Tuệ một bước.”

Tề Cảnh sau một lúc lâu không hề động tĩnh, chỉ yên lặng đánh giá Thương Dịch Chi. Trưởng công chúa vốn vẫn im lặng, bỗng dùng khăn che miệng khóc lớn, vừa khóc vừa nói: “Hoàng Thượng, ta đời này chỉ có duy nhất một đứa con là hắn, khó tránh khỏi có chút nuông chiều, không ngờ tên tiểu súc sinh này lại gây ra tội lỗi ngập trời như vậy. Chẳng những đã chết Vệ Hưng, mà ngay cả con trai duy nhất của Lâm Hiền cũng bị Mạch Tuệ giết, Lâm Hiền vốn không vừa mắt tiểu súc sinh này rồi, nếu biết, tất sẽ muốn bắt hắn phải đền mạng. Hơn nữa tiểu súc sinh lại phạm phải tội tru di cửu tộc, chỉ thương cho Thương lão tử cả đời vì nước, cuối cùng lại bị tiểu súc sinh này liên lụy.”

Tề Cảnh không khỏi nhíu mày, khiển trách: “Thương tướng quân bình định phản quân Vân Tây, càng vất vả công lao lại càng lớn, sao lại liên lụy đến hắn ta!”

Trưởng công chúa càng cảm thấy ủy khuất, không khỏi khóc nói: “Hoàng Thượng, cũng đều tại người và phụ hoàng, lúc trước ta không muốn gả cho Thương Duy là một quân nhân, các người lại cứ muốn ta phải lấy hắn, nếu lúc ấy người ta lấy là một Trạng Nguyên, thì đâu thể sinh ra một tiểu súc sinh lúc nào cũng muốn đấu tranh đến thành tính như thế này!”

Tề Cảnh bị Trưởng công chúa càn quấy khiến cho dở khóc dở cười, đành phải quát lớn: “Thế này mà cũng nói được sao, ngươi làm như mình vẫn là tiểu cô nương không bằng!”

Trưởng công chúa dùng khăn lau lệ nghẹn ngào không nói. Thương Dịch Chi lại đột nhiên lên tiếng: “Hoàng Thượng, thần và Tiết Võ vẫn liên lạc với nhau, để thần cho anh ta biết tình hình thực tế, rồi kêu anh ta phản Mạch Tuệ quy thuận triều đình được không?”

“Không thể!” Tề Cảnh chắp tay sau lưng đi qua đi lại đi giữa hai người, cuối cùng dừng lại nhìn chằm chằm Thương Dịch Chi nói: “Việc này tuy ngươi có chút lỗ mãng, nhưng cũng là một lòng vì nước. Trẫm biết ngươi rất khổ tâm, việc này về sau không được nhắc lại, nếu không, trẫm cũng chẳng có cách nào bảo hộ cho ngươi.”

“Nhưng Thanh Châu thì làm sao bây giờ?” Thương Dịch Chi không khỏi hỏi.

Tề Cảnh cẩn thận cân nhắc, trầm giọng đáp: “Trước cứ để cho quân Giang Bắc chiếm cũng tốt.”

Trưởng công chúa thấy Tề Cảnh không hề truy cứu việc này thì nhất thời mừng rỡ, vội vàng dắt Thương Dịch Chi tạ ơn, cam đoan sau khi trở về sẽ quản giáo con mình cẩn thận. Nỗi nghi ngờ trong lòng Tề Cảnh đối với Thương Dịch Chi đã hết, thầm nghĩ mình đã nắm được nhược điểm mưu đồ phản nghịch của Thương Dịch Chi ở trong tay, nên những kiêng kị đối với Thương Duy ở Vân Tây xa xôi cũng bớt đi ít nhiều.

Chưa đầy mấy ngày sau, Trưởng công chúa lại vào cung, lần này đến là vì cầu thân cho Thương Dịch Chi, không phải là người nào khác, mà chính là công chúa do đương kim hoàng hậu sinh ra. Tề Cảnh đầu tiên là ngẩn người, sau đó thì tảng đá vốn đè nặng trong lòng trong suốt hơn hai mươi năm rốt cuộc rơi xuống đất. Chưa từng nghĩ đến Trưởng công chúa cửa trước vừa rời đi, cửa sau hoàng hậu đã cầu kiến, không nói hai lời liền quỳ xuống trước mặt Tề Cảnh, sống chết không chịu đem nữ nhi gả cho Thương tiểu Hầu gia phong lưu thành tánh kia.

Vì thế, Trưởng công chúa và hoàng hậu, cảnh đấu tranh giữa chị dâu, em chồng chính thức kéo màn che, điều này khiến cho Tề Cảnh rất đau đầu, trái phải cân nhắc hồi lâu, cuối cùng vì không chịu nổi việc hoàng hậu cả ngày ở trước mặt mình khóc sướt mướt, đành phải cự tuyệt lời cầu hôn của Trưởng công chúa. Đồng thời, để trấn an Thương gia, mà không buồn để ý đến sự phản đối của Lâm tể tướng, lệnh cho Thương Duy làm đại nguyên soái của đại quân ở Vân Tây, đồng thời lệnh cho cháu ngoại của Lâm tể tướng là Giang Hùng làm phó soái để kiềm chế, lệnh cho Thương Duy và Giang Hùng cùng hợp lực bình định Vân Tây.

Thịnh Đô khí thế đấu tranh ngất trời, đồng thời, trong thành Thanh Châu một tình thế mới cũng dần dần được hình thành. Quân Giang Bắc cùng quân Thanh Châu kết hợp và tổ chức lại rất thuận lợi, A Mạch tự phong là tướng quân quân Giang Bắc, phong Tiết Võ làm tả phó tướng quân Giang Bắc, nguyên thống lĩnh bộ binh quân Giang Bắc là tướng Mạc Hải làm hữu phó tướng quân, nguyên giáo úy kỵ binh quân Giang Bắc là Trương Sinh phong làm thống lĩnh kỵ binh, nguyên giáo úy bộ binh thất doanh quân Giang Bắc, Vương Thất, thăng làm thống lĩnh bộ binh, chưởng quản lương thảo quân nhu Lý Thiếu Hướng phong làm quan quân nhu. Ngoại trừ mấy người này, bất luận chư tướng trong quân Giang Bắc đi theo A Mạch tiến vào Thanh Châu hay là thủ hạ của Tiết Võ, nguyên thủ thành Thanh Châu, đều căn cứ theo năng lực mà an bài thích đáng.

Trong quân trên dưới đều rất vừa lòng, trong thành Thanh Châu là một mảnh hài hòa.

Ngày mười lăm tháng mười, thời tiết rất đẹp. Trên con đường phía tây thành Thanh Châu có một chiếc xe la chạy vội vã, người đánh xe là một hán tử mặt đen chừng hơn ba mươi tuổi, một thân vải thô đen gọn gàng, một tay cầm cương, một tay cầm roi, ngồi ở trước xe, thỉnh thoảng lại vung roi thúc giục con la trước xe, khiến cỗ xe chạy như bay lên phía trước.

Xe la đến dưới thành Thanh Châu, trên tường thành, thủ binh nhô đầu ra lớn tiếng quát hỏi “Người vừa đến là kẻ nào?”, hán tử mặt đen lúc này mới dừng xe la lại, chưa vội trả lời câu hỏi của thủ binh, mà nhảy xuống xe, hướng vào bên trong nói: “Tiên sinh, đã đến rồi.”

Người bên trong cũng không nói chuyện, sau một lúc lâu, từ trong thùng xe có một cánh tay vén tấm màn phía trước xe lên, tinh tế đánh giá hai chữ “Thanh Châu” bút lực mạnh mẽ trên cổng thành, qua một lúc mới có chút không xác định giống như hỏi: “Đã đến rồi?”

Hán tử mặt đen hán tử, gật đầu nói: “Đến rồi, tiên sinh.”

Trên tường thành, binh lính thấy người phía dưới không lên tiếng trả lời, liền giương cung tên nhắm vào hán tử mặt đen, kêu lên: “Nếu không nói ta sẽ bắn!”

Hán tử mặt đen nghe xong lời này cũng chẳng buồn đến ý, chỉ ngẩng đầu liếc mắt một cái lên tường thành, hỏi người trong xe: “Tiên sinh, có nên nói rõ thân phận để vào thành không?”

Người bên trong xe cân nhắc một lát rồi đáp: “Không cần, cứ nói tới tìm A Mạch đi.”

Hán tử mặt đen cung kính vâng lời, buông màn xe xuống, xoay người nói với binh lính trên tường thành: “Ta tới tìm Mạch Tuệ, Mạch tướng quân.”

Thủ binh trên tường thành vừa nghe nói là đến tìm Mạch tướng quân, liền vội vàng thu cung tên, phái người đi gọi tướng đang trực cổng thành đến. Trong chốc lát, thân ảnh Trương Sinh đã xuất hiện ở phía trên tường thành. Anh ta chỉ liếc mắt nhìn xe la dưới thành một cái, trên mặt liền lộ ra thần sắc vừa mừng vừa sợ, vội vàng kêu thân binh bên người đi báo tin cho A Mạch, còn mình lại bước nhanh xuống dưới thành.

Cầu treo ngoài cổng thành chậm rãi thả xuống, Trương Sinh từ trong thành đi ra, cung kính chào người trong xe: “Tiên sinh.”

Người trong xe thản nhiên đáp lời.

Trương Sinh cười nói: “Tiên sinh cuối cùng cũng đã đến, Mạch đại nhân đợi tiên sinh đã lâu.” Nói xong, hướng về phía hán tử mặt đen gật gật đầu xem như chào hỏi, lại nhận lấy dây cương từ trong tay anh ta, vừa vội vàng đánh xe hướng vào trong thành, vừa tiếp tục nói chuyện với người trong xe: “Mạch đại nhân tính toán tiên sinh mấy ngày nay sẽ đến, nên đã chờ ở cổng thành mấy ngày rồi, nhưng hôm nay có việc quân quan trọng phải chủ trì, nên mới rời đi, mạt tướng đã cho người đi thông tri với Mạch đại nhân, chỉ lát nữa Mạch đại nhân sẽ tới đón tiên sinh.”

Vừa dứt lời, trên ngã tư đường đã vang lên tiếng vó ngựa, A Mạch mang theo vài tên thân vệ từ xa phi đến. A Mạch phóng ngựa trước nhất, phi như bay đến trước xe la mới vội vàng kéo cương ngựa lại, rồi từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất chạy đến bên xe la, vén màn xe lên, hướng vào bên trong kêu lên: “Từ tiên sinh!”

Trong xe, Từ Tĩnh khó nén nổi vẻ mỏi mệt, biểu hiện cũng có chút bất đắc dĩ, theo thói quen lại đưa tay vuốt chòm râu trên cằm, nói với A Mạch: “A Mạch, ngươi chẳng gì cũng đã là người tối cao trong quân, tại sao lại không thấy một chút trầm ổn của đại tướng quân!”

A Mạch cười gượng hai tiếng, ánh mắt trong suốt nhìn Từ Tĩnh, đáp: “Chẳng phải nhìn thấy tiên sinh mà cao hứng quá đó sao!” Nói xong xoay người phân phó mọi người về thành phủ, tự mình lại chui vào bên trong xe, ngồi xếp bằng đối diện Từ Tĩnh, hỏi: “Tiên sinh đi đường có thuận lợi không?”

Từ Tĩnh đưa đôi mắt trắng dã nhìn nàng, âm dương quái khí đáp: “Thuận lợi! Tất nhiên là thuận lợi rồi! Có Hắc Diện đi theo, ta có thể không thuận lợi được sao? Ta ngày hai mươi sáu tháng chín ra khỏi Ô Lan, hôm nay đã chạy tới đây, chưa dám trì hoãn dù chỉ một ngày, còn có thể thuận lợi như thế nào nữa? Nếu thuận lợi hơn chút nữa, mấy cái xương già của lão phu có lẽ đã rơi ở dọc đường rồi!”

A Mạch nhếch miệng cười, giải vây thay Hắc Diện nói: “Hắc Diện tính tình vốn nóng nảy, tiên sinh chớ nên trách anh ta, đều là ta không phải.”

Từ Tĩnh hắc hắc cười lạnh hai tiếng, nói: “Ta biết đều là ngươi không phải, ngươi kêu Hắc Diện đưa ta trở về, còn bày đặt mĩ danh là để bảo vệ ta, sợ là trong bụng cũng sẽ không nghĩ tốt như vậy!”

A Mạch vội vàng cười nói: “Sao có thể! Sao có thể! Kêu Hắc Diện đi đón tiên sinh đúng thật là vì sự an toàn của tiên sinh. Tiên sinh cũng không phải không biết, anh ta là người có võ nghệ tốt nhất ở trong doanh ta đấy.”

Từ Tĩnh bĩu môi, hiển nhiên không tin.

A Mạch lại cười tiếp rồi nói: “Đương nhiên, cũng có một chút tính toán riêng.” Nàng lúc ấy phái Hắc Diện đi đón Từ Tĩnh, ngoại trừ bảo đảm an toàn cho Từ Tĩnh, còn lại chủ yếu là lo Hắc Diện người này vốn luôn luôn không quá phục nàng, ở trong doanh sợ là không dễ khống chế, chi bằng lệnh cho anh ta đi theo Từ Tĩnh để bảo vệ.

Từ Tĩnh thấy A Mạch thản nhiên thừa nhận, nếu tiếp tục so đo với nàng cũng không hay, đành phải đảo cặp mắt trắng dã coi như bỏ qua việc này.

A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy ông ta như thế liền biết việc này xem như đã trôi chảy, vội vàng nói sang chuyện khác: “Tiên sinh thấy thành Thanh Châu này thế nào?”

Ai ngờ Từ Tĩnh phản ứng lại có phần lãnh đạm, chỉ khẽ gật đầu, đáp lấy lệ: “Thành cao thế hiểm, dễ thủ khó công.”

A Mạch cười cười, nói: “Chẳng lẽ không phải như thế, đâu thể nơi nào cũng có núi Thái Hành làm cánh cửa bảo vệ, phía sau còn yểm trợ được cho cả hai vùng Ký Châu và Sơn Đông nữa.”

Từ Tĩnh giương mắt nhìn A Mạch, đột nhiên hỏi: “Ngươi cũng biết Thường Ngọc Thanh đang trú quân ở Võ An?”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét