5 thg 8, 2014

A Mạch tòng quân - Chương 115-116

LỄ VẬT MỪNG NĂM MỚI

A Mạch lúc này vẫn dấu đi nút thắt quan trọng, cười nói: “Tiên sinh, là chiến pháp gì tạm thời ta không nói vội, ta chỉ cần hai ngàn kỵ binh, một vạn bộ binh. Còn lại vẫn dựa theo kế hoạch ban đầu mà làm. Nếu ta thất bại, sẽ trốn vào khe núi Phi Long, không chừng còn có thể dụ được Thường Ngọc Thanh truy kích đến đó.”

Từ Tĩnh: “Cánh quân mới này do ai thống lĩnh?”

Trong đầu A Mạch thoáng hiện lên một người, lập tức đáp: “Hắc Diện!”

Hắc Diện, sau chính biến ở thành Thái Hưng, A Mạch dẫn quân tiến về Thanh Châu, đã lệnh cho anh ta trở về núi Ô Lan hộ tống Từ Tĩnh đến đây. Khi anh ta đến thì quân Giang Bắc đã điều chỉnh xong, vẫn chưa bố trí anh ta thực sự giữ chức vụ gì, bởi vậy, mặc dù Hắc Diện vẫn có tên trong hàng ngũ tướng lĩnh, nhưng trên thực tế lại rất nhàn rỗi.

Cách một ngày sau, A Mạch liền cho gọi Hắc Diện đến, sau khi cùng anh ta mật đàm nửa ngày lại cho gọi thống lĩnh kỵ binh Trương Sinh đến, thương lượng với anh ta lấy hai ngàn kỵ binh giao cho Hắc Diện chỉ huy. Kỵ binh của Trương Sinh vốn chưa đến năm ngàn, trước đó vài ngày lại vừa xuất một ít binh lính già yếu đưa về bộ binh doanh, hiện giờ trong tay tổng cộng cũng chỉ có bốn ngàn, A Mạch vừa hé miệng lại muốn lấy đi hai ngàn, trên mặt Trương Sinh bất giác hiện rõ vẻ ngạc nhiên. Chẳng qua Trương Sinh vốn vô cùng tin phục A Mạch, hơn nữa, kỵ binh vốn do Đường Thiệu Nghĩa kiến lập nên, anh ta có thể tiếp nhận vị trí này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm của A Mạch, cho nên cũng chỉ thoáng chần chờ trong giây lát, rồi sảng khoái đáp: “Được!”

Trương Sinh đã đáp ứng rồi, những chuyện còn lại dễ hơn rất nhiều.

Thủ hạ bộ binh doanh của Vương Thất và cung nỏ doanh vừa sáp nhập xong, A Mạch lại lấy từ trong doanh trại của anh ta một vạn binh lính tráng kiện giao cho Hắc Diện. Vương Thất không giống với Trương Sinh, anh ta và A Mạch chung một ngũ đi lên, tình cảm không thể so với những người bình thường khác, nói chuyện cùng A Mạch cũng tùy ý hơn rất nhiều. Thấy A Mạch muốn lấy binh lính tráng kiện từ bộ binh doanh của mình để thành lập một cánh quân mới, không khỏi quấn lấy A Mạch hỏi cánh quân mới này để thực hiện chiến pháp mới nào. Ai ngờ A Mạch cũng không nói lộ điều gì, chỉ bảo sau này thấy rồi sẽ biết. Nghe xong, Vương Thất càng cảm thấy thâm tâm ngứa ngáy khó chịu, tuy nhiên, đối với chuyện thành lập cánh quân mới này so với Hắc Diện còn tích cực hơn, chỉ trong vòng hai ngày đã đem người giao cho Hắc Diện.

Có người, lại có trang bị, cánh quân mới chỉ còn đợi sắp xếp, phối hợp với sàng nỏ(1), trên tường thành Thanh Châu vốn không đủ, phải cho thợ thủ công chỗ quân giới chế tạo thêm, việc này hơi mất thời gian, tổn hao công sức, và cũng khó làm. Thứ cần dùng nữa là vài chiếc xe, A Mạch nhốt mình trong phòng nửa ngày, phỏng theo trí nhớ, cuối cùng vẽ xong một bản vẽ, giao cho Lý Thiếu Hướng, lệnh cho anh ta căn cứ theo bức vẽ chế tạo gấp.

Lý Thiếu Hướng nghe sơ qua liền muốn đến chỗ quân giới đẩy nhanh tốc độ chế tạo xe ngựa ngay lập tức, còn nói là muốn đi Ký Châu vận lương, nên liên mồm đáp ứng, nhưng khi nhìn đến bản vẽ mô phỏng của A Mạch thì kêu lên: “Đại nhân, xe này của ngài không thể dùng được, vừa nhìn là biết ngài không phải xuất thân từ gia đình nông dân. Ta mặc dù không phải là thợ mộc, nhưng xem qua cũng biết bản vẽ này là để chế tạo xe ngựa…”

A Mạch dở khóc dở cười, vội vàng cắt ngang lời Lý Thiếu Hướng, chỉ phân phó nói: “Cái khác ngươi không cần phải xen vào, chỉ cần tìm thợ mộc đến căn cứ theo bản vẽ này làm mẫu một chiếc xe đem trước đến cho ta xem rồi nói sau!”

Lý Thiếu Hướng vẫn tỏ vẻ không tình nguyện, muốn cùng A Mạch bàn luận tiếp. A Mạch sợ anh ta quấy rầy, đành phải lừa anh ta: “Xe này mặc dù không phải dùng để vận lương, nhưng nhờ có nó chúng ta sẽ có được không ít lương thực, ngươi cứ yên tâm!”

Lúc này Lý Thiếu Hướng mới càu nhà càu nhàu bước đi, lại tìm trong quân khoảng một trăm binh lính trước đây từng làm thợ mộc đến hỗ trợ, lúc này mới gấp rút trong vòng một tháng giao ra ba trăm chiếc xe thiên tương(2). Cái gọi là xe thiên tương, kỳ thật chính là một cỗ xe có cả tác dụng tấn công và phòng thủ, chế tạo thành một cỗ chiến xa có những tấm bình phong bảo vệ, song khi kết hợp cùng với ngựa sẽ tạo thành một loại chướng ngại vật, hợp thành một doanh xe để ngừa địch đánh bất ngờ. Từ những tấm bình phong bảo vệ này có những ô cửa sổ ở giữa, sàng nỏ sẽ được bắn ra từ đó, tấn công theo kiểu “Vừa đánh vừa tiến lên”. Loại xe này từ mấy trăm năm trước đã có người dùng rồi, chẳng qua khi chế tạo A Mạch có thay đổi một chút, có tám tấm bình phong có thể gấp lại, chiều dài tổng cộng là mười lăm thước, bình thường chúng được đặt ở trên càng xe, khi tác chiến đánh trận thì mở ra dựng ở một bên bánh xe như một cái hòm lớn, cho nên gọi là “Xe thiên tương”.

Tuy đã có chiến xa, sàng nỏ theo bộ lại không thể chế tạo gấp theo được. A Mạch biết Lý Thiếu Hướng đã cố hết sức cho nên không trách móc anh ta, chỉ đem những chiến xa này giao cho Hắc Diện, lệnh cho anh ta dùng những cỗ xe trống đó cho cánh quân mới thao luyện trước.

Cánh quân mới có giáo trường riêng, bốn ngàn bộ binh bắt đầu thao luyện, trải qua một tháng huấn luyện đặc biệt, hiện giờ diện mạo đã bắt đầu lộ rõ. Trận địa của bọn họ rất khác so với trước kia, tất cả tạo thành một đội, đứng đầu là đội trưởng, thứ hai là người một tay cầm trường bài (3), một tay cầm khiên mây, trường bài để che chắn trường thương, loan đao của địch, khiên mây(4) làm bằng chất liệu nhẹ có cài giáo, đao, cầm trường bài và khiên mây chủ yếu để yểm hộ cho đội quân phía sau tiến lên, khiên mây ngoại trừ yểm hộ còn phủ phục trước vó ngựa địch. Hai người tiếp theo cầm lang tiển(5), lợi dụng lưỡi dao sắc bén phía trước của lang tiển mà ám sát địch nhân, dùng khiên tăng cường yểm hộ đồng thời tay kia dùng trường thương tấn công. Tiếp đó là bốn người tay cầm trường thương, trái phải hai người, chủ yếu khiêu khích khiến cho quân địch xuống ngựa, tiếp theo là sử dụng đoản đao và vũ khí ngắn tấn công vào bên sườn và bên hông của địch, tiến sát lên chém giết địch nhân.

Sáu ngàn bộ binh được phân phối giữ ba trăm cỗ chiến xa. Hai mươi bộ binh phụ trách một chiến xa, trong đó mười người trực tiếp lệ thuộc vào chiến xa, nhiệm vụ là bắn sàng nỏ, mười người còn lại thì tạo thành một “Tiểu đội sát thủ”, tay cầm khiên mây, đinh ba cùng đơn đao cán dài(6) nghênh địch. Khoảng cách giữa tiểu đội sát thủ và chiến xa duy trì trong vòng hai mươi lăm thước, nếu bọn họ tiến lên, chiến xa cũng theo đó mà được đẩy lên phía trước.

Vì sàng nỏ không thể chế tạo gấp được, nên mấy trăm cỗ chiến xa đành buộc đá lớn vào để luyện tập, sau đó binh lính đẩy chiến xa chạy khắp giáo trường…

Vẫn cùng một cảnh tượng, nhưng khi rơi vào trong mắt những người khác nhau lại này sinh ra ra những ý nghĩ khác nhau:

Ánh mắt Từ Tĩnh khi nhìn cảnh này dường như tỏa sáng, ban đầu, ông ta vốn tưởng rằng A Mạch chỉ muốn dùng xa trận đối kháng với kỵ binh, đang muốn khuyên nhủ A Mạch đừng cố chấp mà tự làm khó cho mình, cách đó không thể thủ thắng được đâu, hiện giờ nhìn thấy cảnh tượng này, tay không tự chủ được mà đưa lên giữ chặt chòm râu trên cằm.

Vương Thất nhìn những binh lính cường tráng đó mà cũng thấy vô cùng tự hào, không hổ là lấy từ trong doanh trại của ta ra, các ngươi đâu thể vạm vỡ bằng những tiểu tử này được?

Quan quân nhu Lý Thiếu Hướng nhìn thấy một màn này mà càng thêm đau lòng, một đám ăn uống như bị mất cắp, thế mà lại chỉ để làm mấy cái việc đẩy đá, có sức lực như vậy làm cái gì khác mà chả tốt, thật lãng phí quá a.

Mỗi người một tâm tư, cứ thế mà ngày trôi qua rất nhanh, cái tết đầu tiên của quân Giang Bắc ở Thanh Châu đã đến. Nhưng không khí vui mừng của năm mới không chạm được chút nào lên khuôn mặt của Lý Thiếu Hướng, ngược lại, lại khắc sâu lên đó thêm vài phần sầu khổ, cửa ải cuối năm, cửa ải cuối năm a, lễ mừng năm mới chính là cửa ải cuối năm của người nghèo a. Cái khác tạm thời không nói, chỉ nói trước mắt không có bột cũng chẳng có thịt, lấy cái gì cho mọi người đón năm mới đây? Lý Thiếu Hướng giương mắt nhìn lên bầu trời tối tăm, hận không thể khiến những thứ đang trút từ trên trời xuống không phải là tuyết, mà là bột mỳ a.

Có lẽ nỗi lòng ai oán của Lý Thiếu Hướng đã thấu lên tận trời xanh, cho nên vào ngày hai mươi tám tháng chạp, ngoài thành Thanh Châu đột nhiên có người đưa tới cho quân Giang Bắc mấy chục xe toàn đồ ăn ngon của nơi thôn dã. Áp giải đoàn xe là hơn ba mươi hán tử tráng kiện, đầu tiên họ cho xe ngựa dừng lại ở phía xa xa, rồi duy nhất một người đi tới dưới thành, hướng về phía trên tường thành cao giọng hô: “Có vị cố nhân tặng Mạch tướng quân chút quà năm mới, thỉnh quân gia buông cầu treo cho chúng ta đem những lễ vật này vào thành.”

Binh lính thủ thành nào dám tùy ý buông cầu treo, nghe vậy liền vội vàng xin chỉ thị của trưởng quan. Hôm nay, phụ trách bảo vệ thành là Hữu phó tướng quân Mạc Hải, nhận được tin liền lên trên thành để xem, chỉ thấy xa xa dưới thành một đoàn xe ngựa đang đứng chờ, xe nào xe nấy chất đầy hàng hóa, ước chừng phải đến ba, bốn mươi cỗ xe. Hán tử đứng dưới thành nhìn thấy một vị tướng quân mặc mũ giáp đi lên, biết là người chịu trách nhiệm ở đây, liền cao giọng nói: “Ta được một vị cố nhân của Mạch tướng quân ủy thác đến đây giao tín vật, phiền vị tướng quân này giao cho Mạch tướng quân, ngài ấy nhìn thấy sẽ nhận ra.”

Nói xong vung tay lên, một bọc nhỏ liền bay thẳng lên vọng lâu của tòa thành, rơi vào trong lòng Mạc Hải. Con sông đào bảo vệ thành ước chừng rộng vài chục trượng, lại thêm độ cao của tường thành, thế mà người nọ chỉ tiện tay ném một cái, vật nọ liền bay tới trước người Mạc Hải, đủ thấy lực cánh tay của anh ta mạnh đến mức khiến người ta phải phát sợ. Mạc Hải trong lòng thất kinh, nhận được cái bọc nhỏ kia liền mở ra, thấy trong đó là một tấm huy hiệu của quân Nam Hạ bằng đồng, khắc cấp bậc giáo úy. Mạc Hải nhất thời không đoán ra đây là tín vật của người nào, liền vội vàng gọi người cầm bọc nhỏ bằng vải bố đi tìm, đưa cho A Mạch.

A Mạch đang ở trên giáo trường chỉ đạo Hắc Diện huấn luyện cánh quân mới, Lý Thiếu Hướng vẫn như trước, bám theo bên cạnh nàng lải nhải việc quân nhu. A Mạch nghe mà phát phiền, mấy lần muốn phất tay đuổi Lý Thiếu Hướng đi. Thủ binh trên tường đến đưa cái bọc nhỏ bằng vải bố cho nàng, nói là ngoài thành có người tặng nàng lễ vật mừng năm mới, đặc biệt giao tín vật này cho nàng. A Mạch kinh ngạc, đợi khi nhìn rõ tấm huy hiệu giáo úy trong bao vải kia, đầu tiên là ngẩn người, tiếp đó là vui mừng khôn xiết, không kịp dặn dò Hắc Diện một tiếng, liền xoay người đi vội ra khỏi giáo trường.

Lý Thiếu Hướng đứng ở phía sau nhìn cảm thấy rất lạ, lại nhớ đến mấy chữ “Lễ vật năm mới” mà tên lính kia vừa nói, liền vội vàng lặng lẽ đi theo, thấy sải chân của A Mạch thật dài, dường như không nhịn được mà muốn chạy đi.

Mạc Hải vẫn chờ trên vọng lâu của cổng thành, thấy A Mạch nhanh như vậy đã tới, bất giác có chút kinh ngạc, vội vàng chạy lại đón, kêu lên: “Đại nhân.”

A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, rồi hướng bước chân đến lỗ châu mai hỏi Mạc Hải: “Người đó đâu?” Vừa hỏi xong đã đi đến bên cạnh lỗ châu mai rồi, A Mạch cúi xuống nhìn, nhất thời có chút trố mắt, chỉ thấy bên kia con sông đào bảo vệ thành có mấy chục cỗ xe chở hàng im lìm đứng đó, nhưng một bóng người cũng không thấy đâu.

Mạc Hải đáp: “Người đó nói những thứ cần đưa đã đưa đến đây rồi, nên anh ta về trước.”

A Mạch khẽ giật mình, lúc này mới ừ một tiếng.

Mạc Hải lại hỏi: “Đại nhân, những xe ngựa này làm sao bây giờ?”

Đoàn xe ngựa kia có khoảng ba, bốn mươi chiếc, phía trên đều phủ cỏ, tất cả các xe đều được xếp đầy, từ trên thành nhìn xuống thật không biết bên trong là cái gì, nếu có dấu người bên trong cũng không thể nhận ra được. Nghe Mạc Hải hỏi, A Mạch liền mỉm cười, quay đầu lại nói: “Tặng lễ vật năm mới cho chúng ta thì cứ thu lại là được, đúng lúc Lý Thiếu Hướng cả ngày không ngừng nhắc tới nhắc lui là lấy đâu ra đồ mừng năm!”

Nàng nói xong, Mạc Hải còn chưa kịp nói gì, thì Lý Thiếu Hướng vừa mới thò mặt lên tường thành cũng đã vô cùng lanh lẹ lên tiếng, xoay người, chân không ngừng bước mà đi luôn xuống dưới thành. A Mạch vội gọi anh ta lại dặn dò: “Gọi người đi dắt la, ngựa đến, kiểm kê cho rõ ràng rồi kéo hết xe vào thành.”

Lý Thiếu Hướng quay lại nhếch miệng cười nói: “Còn dắt la, ngựa làm gì, dù sao những người của lão Hắc hằng ngày đều luyện đẩy xe ngựa đấy thôi, ta đi gọi bọn họ đến đây là được rồi.”

A Mạch không khỏi bật cười, bất đắc dĩ lắc lắc đầu, tấm huy hiệu bằng đồng nắm chặt trong tay một hồi lâu đã mang theo nhiệt độ cơ thể của nàng, A Mạch cúi đầu nhìn kỹ một lát, cẩn thận thu vào trong lòng, ngẩng đầu nhìn tầng mây đang bị ép nặng trĩu. Gió Bắc đã nổi lên, cuốn theo nhiều bông tuyết rơi xuống, trong không khí phảng phất có mùi thuốc pháo. Thịnh Nguyên năm thứ năm, cuối cùng thì một trận tuyết lớn đã xuất hiện.

—————————–

Chú thích:
1- Sàng nỏ:

2- Xe thiên tương: thiên nghĩa là lệch 1 bên; tương nghĩa là cái hộp. Đọc phần miêu tả hình dáng chiếc xe này trong truyện các bạn sẽ hiểu tên của nó.

3- Trường bài


4- Khiên mây

5- Lang tiển


6- Đơn đao cán dài (hay trường đao)



ĐẠI CHIẾN (THƯỢNG)

Vì năm nay lập xuân(1) rơi vào năm sau, cho nên mùa xuân rất lạnh, đợi đến khi thời tiết chuyển sang ấm áp thì đã đến giữa tháng hai. A Mạch đã trang bị xong sàng nỏ cho cánh quân mới, binh lính luyện tập đã dần tiến đến giai đoạn đạt chuẩn. Phần lớn kỵ binh trong cánh quân mới cũng đều đề nghị A Mạch thay bằng một loại vũ khí mới tương tự như lang nha bổng, loại vũ khi này càng dùng càng cảm thấy đơn giản, thuận tay, lại có thể tự mình gia công thay đổi, ví dụ như có thể tăng thêm đinh sắt ở phía đầu mút và bẻ cong lại, một bổng nện xuống khi thuận thế thu về có thể giật ngã đối phương từ trên ngựa xuống, thật là tuyệt diệu không thể tả xiết!

Việc huấn luyện cánh quân mới tiến triển vô cùng thuận lợi, các doanh trại khác thao luyện cũng rất khắc khổ, tình hình trong thành rất tốt, chỉ ngoại trừ Lý Thiếu Hướng vì chuyện lương thảo mà phát hỏa, còn lại chư tướng quân Giang Bắc đều quản lý công việc của mình gọn gàng trật tự.

Cùng lúc đó, đại quân Bắc Mạc yên ổn trú quân tại thành Võ An, bộ tộc Thường gia cả già lẫn trẻ gồm ba gã đàn ông đã trải qua một năm ở thành Võ An. Lương thảo của Thanh Châu so với ở đây thì chẳng khác gì như lấy trứng chọi đá, bởi lương thảo của đại quân Bắc Mạc ở thành Võ An rất dư dả, đại nguyên soái chinh nam Trần Khởi chẳng những cấp lương thảo đầy đủ mà còn đặc biệt phái Tuyên uy tướng quân Phó Duyệt áp tải lương thảo, vật tư đến đây.

Nói đến Phó Duyệt, các chư tướng quân Giang Bắc đều cảm thấy có chút xa lạ, Vương Thất – quản lý đội thám báo liền giải thích: “Chính là ca ca của Phó Hướng, kẻ bị chúng ta bắn chết trong chiến dịch tại Dã Lang Câu vào năm Thịnh Nguyên thứ hai đó.”

Chư tướng quân Giang Bắc không khỏi đồng thanh “À” lên một tiếng, âm đuôi kéo ra rất dài, tất cả đều cùng một biểu cảm. Tiết Vũ vốn ở lại thành Thanh Châu, đối với trận chiến tại Dã Lang Câu cũng không biết nhiều lắm, liền hỏi: “Chính là kẻ cùng với Thường Ngọc Thanh ở Bắc Mạc xưng là ‘Tướng môn song tú’ Phó Hướng?”

Mạc Hải khinh thường cười nhạo một tiếng: “Song tú ấy à, thích việc lớn hám công to, khinh xuất liều lĩnh, chỉ vừa mới giao chiến cùng quân Giang Bắc chúng ta đã bị bắn chết.”

A Mạch cân nhắc một lát liền hỏi Vương Thất: “Vì sao Trần Khởi lại phái người này đến đây? Chỉ áp giải lương thảo hay là ở lại Võ An? Về phương diện này có tin tức gì không?”

Vương Thất lắc đầu: “Không có tin tức gì, chỉ biết lương thảo do Phó Duyệt áp tải đến.”

Từ Tĩnh vẫn im lặng đột nhiên cười nói: “Nếu là vì tranh chấp của các phe cánh trong quân Bắc Mạc, thì xem ra đây là Trần Khởi muốn mượn sức Phó gia và Thôi gia để chống đỡ thôi.”

A Mạch yên lặng không nói gì, như thể có điều đang phải cân nhắc.

Trương Sinh nhìn Từ Tĩnh, lại nhìn A Mạch, hỏi: “Đại nhân, ngài muốn đi cướp lương thảo sao?”

A Mạch nghe vậy thì khôi phục lại vẻ bình tĩnh, liếc mắt thấy Lý Thiếu Hướng đang dùng đôi mắt chờ mong nhìn nàng, liền lắc đầu nói với Trương Sinh: “Không thể được, kỵ binh của chúng ta lực lượng quá mỏng, thát tử lại sớm có phòng bị, đi chỉ mất công, lại khiến kỵ binh bị tổn thất mà thôi.”

Từ Tĩnh cũng gật đầu nói: “Không sai.”

Trong thành Võ An, mấy người của Thường gia đang thương nghị việc Phó Duyệt vận tải lương thảo đến đây.

Thường Tu An đối việc này vô cùng tức giận nói: “Thường gia ta lãnh binh đông tiến, còn phái Phó gia tới làm gì, rõ ràng là cố ý muốn quấy rối đây mà, nếu không phải vì tên Phó Hướng, chúng ta đâu chịu thất bại ở Dã Lang Câu! Hơn nữa Phó gia thì có bản lĩnh gì, không phải chỉ dựa vào việc là thân thích với Thái Hậu hay sao?”

“Tam thúc!” Thường Ngọc Tông ngắt lời Thường Tu An, quay lại nhìn đường huynh Thường Ngọc Thanh, hỏi: “Thất ca, hay Trần Khởi ngại tốc độ đông tiến của chúng ta quá chậm? Chúng ta một đường đánh từ Dự Châu đánh tới Thanh Châu, tất cả cũng hạ được hơn mười thành trì, tuy là bị vướng chân ở Thanh Châu, nhưng cũng chẳng hề rảnh rỗi, sao anh ta lại như thế?”

Không giận dữ như Thường Tu An hay nghi hoặc như Thường Ngọc Tông, sắc mặt của Thường Ngọc Thanh vẫn bình thản, khóe miệng còn dẫn theo một nét cười mỉa mai, nghe vậy nói: “Nguyên nhân là vì Thường gia chúng ta lập được quá nhiều quân công, nên anh ta mới kêu Phó Duyệt đến đây để chia bớt phần của chén canh này, vừa đoạt quân công của Thường gia ta, lại cho Phó gia thể diện, một công đôi việc như vậy, cớ gì mà lại không làm!”

Thường Tu An tức giận nói: “Chờ Phó Duyệt đến đây, chúng ta liền cô lập hắn ta, xem hắn làm thế nào phát động được binh mã!”

Thường Ngọc Thanh cũng cười, nói: “Nếu tam thúc làm thế lại càng đúng tâm ý của Trần Khởi, không những chúng ta sẽ đắc tội với Phó gia mà còn khiến cho Hoàng Thượng tức giận, nếu Hoàng Thượng có khúc mắc, chúng ta dù có lập nhiều quân công hơn nữa thì cũng có ích gì?”

Thường Ngọc Tông nhịn không được hỏi: “Vậy phải làm sao?”

Thường Ngọc Thanh khẽ cười nói: “Một khi Phó Duyệt đến đây thì phải dùng anh ta, hơn nữa, không những dùng mà còn phải trọng dụng!”

Bước vào ba tháng, lượng thóc lúa trong kho lương thảo của Thanh Châu càng ngày càng ít, nhưng thật ngoài ý muốn, Lý Thiếu Hướng lại vô cùng bình tĩnh. A Mạch càng ngày càng trở nên trầm mặc, theo tin tức thám báo từ Võ An đưa về, đại quân Thường Ngọc Thanh đã có hành động, một trận chiến không thể tránh khỏi cuối cùng cũng đã tới.

Thử thách, đây chính là thử thách đối với cánh quân mới, cũng là thử thách đối với sự tồn vong sinh tử của quân Giang Bắc.

Ngày mười hai tháng ba, đại quân Bắc Mạc ra khỏi thành Võ An tiến thẳng đến uy hiếp Thanh Châu.

Trương Sinh, thống lĩnh kỵ binh quân Giang Bắc, nhân cơ hội này mang hai ngàn kỵ binh đánh lén đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, nào ngờ Thường Ngọc Thanh sớm đã có phòng bị, lưu lại cho Thường Tu An ba ngàn kỵ binh và một ngàn bộ binh bảo vệ lương thảo. Quân của Trương Sinh rơi vào tình thế bất lợi nên tổn thất lớn, liền dẫn kỵ binh quân Giang Bắc rút lui về phía nam thành Thanh Châu.

Ngày mười bảy tháng ba, thiết kỵ Bắc Mạc đến phía tây thành Thanh Châu. Trong thành Thanh Châu không còn đủ lương thảo, nên năm vạn đại quân Giang Bắc đã bỏ thành Thanh Châu, rút lui về khe núi Phi Long theo hướng đông. Cùng với đó, dân chúng trong thành sợ quân Bắc Mạc tàn sát mà biến thành loạn dân, mang theo lương thực và đồ quý giá bỏ chạy tứ phía, cửa thành Thanh Châu mở rộng, trong thành là một cảnh hỗn loạn.

Thường Ngọc Tông đề nghị đưa quân Bắc Mạc vào thành bình định loạn dân, nhân cơ hội chiếm cứ thành Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh chỉ cười lạnh, chẳng những không tiến vào thành Thanh Châu, mà ngược lại, vượt qua thành Thanh Châu, sau đó rút ra ba ngàn thiết kỵ giao cho tiên phong Phó Duyệt chỉ huy, xuyên qua khe núi Phi Long cắt đứt đường lui của quân Giang Bắc, còn đại quân chủ lực từng bước áp sát theo quân Giang Bắc, khiến toàn bộ đại quân Giang Bắc không kịp lui vào trong khe núi Phi Long mà bị chặn lại ở vùng đất bằng bẳng ở khe núi Khẩu Bắc

Sau gần nửa năm xa cách, A Mạch và Thường Ngọc Thanh cuối cùng lại không thể tránh khỏi thế đối địch.

Không giống với địa thế trật hẹp trong khe núi Phi Long, khe núi Khẩu Bắc chính là một phần chân núi Thái Hành kéo dài về hướng tây, hình thành nên một vùng đất bằng phẳng, đúng là một địa hình vô cùng thích hợp cho kỵ binh tác chiến. Kỵ binh quân Giang Bắc yểm hộ cho bộ binh lui về hướng đông, thấy đại quân Bắc Mạc đuổi tới nơi vội vàng bày trận nghênh địch. Nhưng số lượng kỵ binh quân Giang Bắc vốn không nhiều lắm, Trương Sinh lại mang một nửa đi tập kích đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, cho nên ở đây cũng chỉ còn lại hai ngàn, so với con số hai vạn thiết kỵ Bắc Mạc thật có chút đáng thương.

Hai ngàn đối đầu với hai vạn, lại ở vùng đất bằng phẳng, thắng bại cơ hồ đã rõ.

Kỵ binh Bắc Mạc đều đã có chút không thể kiềm chế được, song đại tướng quân Thường Ngọc Thanh lại vẫn như trước không hạ lệnh xung phong. Anh ta vốn luôn tìm cơ hội được sớm cùng quân Giang Bắc dã chiến, hiện giờ khi đã thật sự chặn được quân Giang Bắc ở nơi này, anh ta lại bắt đầu cảm thấy có chút do dự. Thường Ngọc Thanh rất hiểu A Mạch, nàng không thể là người dễ dàng khoanh tay chịu chết. Quả nhiên, kỵ binh quân Giang Bắc sau khi bày trận liền rất nhanh rút lui, lộ ra ba trăm cỗ chiến xa ẩn nấp ở phía sau.

Thường Ngọc Thanh rốt cục mỉm cười, thì ra là muốn dùng xa trận chống lại kỵ binh. Dựa vào chiến xa vững chắc để cản trở kỵ binh đánh sâu vào trận địa, duy trì hoàn chỉnh mặt trận phe mình. Đồng thời, vì chiến xa phân bố dày đặc trong trận, không gian trong khe núi rất chật hẹp, khúc khuỷu, kỵ binh rất khó có thể xen kẽ thần tốc, hành động chắc chắn sẽ bị hạn chế rất lớn… Thế nhưng, tuy xa trận có một chút ưu thế đối với kỵ binh, lại khó có thể chống lại sự tấn công linh hoạt của bộ binh, đồng thời lại có một nhược điểm trí mạng, đó là e sợ hỏa công, lại thêm xa trận lấy việc phòng thủ là chính, về cơ bản rất bất lợi cho việc chủ động xuất kích cũng như tấn công tác chiến.

A Mạch, ngươi khiến cho ta có chút thất vọng rồi. Thường Ngọc Thanh khẽ cong khóe môi cười, dặn dò Thường Ngọc Tông: “Chuẩn bị hỏa tiễn và cỏ khô để đốt xe.”

Thường Ngọc Tông cũng là người thông thạo binh thư, tất nhiên biết Thường Ngọc Thanh muốn dùng hỏa công để đối phó xa trận, liền vội vàng sai người bố trí hỏa tiễn cùng cỏ khô. Phía bên kia, mấy trăm cỗ chiến xa của quân Giang Bắc nhanh chóng áp sát vào mô hình trận địa, hơn nữa, dàn trận cũng chẳng theo đội hình thông thường, như mô hình trận địa hình bán nguyệt, hình vuông phân bố theo chiều dọc, mà là trước sau lần lượt thay đổi xếp thành mấy hàng, sau đó tiến rất nhanh về phía quân Bắc Mạc.

Quân Bắc Mạc nhìn mà bất giác có chút hồ đồ, xa trận đều lấy phòng ngự làm chủ, chưa bao giờ thấy chiến xa lại được đẩy như điên lên phía trước như thế này! Quân Giang Bắc muốn làm gì vậy? Mắt thấy khoảng cách giữa hai quân càng lúc càng gần, Thường Ngọc Thanh mặc dù nhất thời không hiểu A Mạch rốt cuộc đang giở trò bịp bợm gì, song cũng không thể để chiến xa của địch quân đánh sâu vào trận địa của quân mình, liền bình tĩnh hạ lệnh cho kỵ binh phía trước tấn công quân Giang Bắc.

Mà chiến xa của quân Giang Bắc khi vọt tới chỉ còn cách kỵ binh quân Bắc Mạc khoảng hai trăm trượng liền đột ngột dừng lại, những tấm chăn thô phủ trên chiến xa rốt cục bị hất ra, để lộ những cỗ sàng nỏ được cố định bên trên… Tầm bắn của cung tên không thể so với sàng nỏ, loại vũ khí này do vài binh lính kéo trục cơ quan mà bắn nỏ, tầm bắn có thể đạt tới ba trăm bước. Thiết kỵ Bắc Mạc vừa mới xung phong, tên nỏ của quân Giang Bắc đã xé gió bay tới.

Dùng gỗ làm thân, đuôi gắn lông vũ, nếu gọi là tên, chi bằng gọi là ngọn thương gắn lông vũ còn chính xác hơn, hầu như mỗi một ngọn thương rơi xuống đều khiến cho một kỵ binh cả người lẫn ngựa đều ngã lăn trên mặt đất, thậm chí có ngọn thương còn đâm xuyên qua cả mấy kỵ binh. Đại quân Bắc Mạc đột nhiên bị tấn công liền trở nên hồ đồ, đội kỵ binh xung phong này lập tức chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng, thậm chí ngay cả đại đội kỵ binh chưa xung phong ở phía sau cũng trong phạm vi công kích của tên nỏ. Mỗi loạt tên nỏ hạ xuống, thì lại có một loạt thiết kỵ Bắc Mạc ngã nhào, trận địa kỵ binh trở thành tấm bia ngắm thật tốt cho cánh quân mới của quân Giang Bắc.

Lúc này, ngàn vạn lần không còn cách để lùi về phía sau. Thường Ngọc Thanh lấy lại phản ứng, lạnh giọng hạ lệnh cho cánh trái đánh sâu vào trận địa cánh phải của địch quân, chư quân còn lại thì tiếp tục đánh sâu vào trận địa của quân Giang Bắc.

Thường Ngọc Thanh suy nghĩ rất rõ ràng, sàng nỏ của quân Giang Bắc tuy lợi hại, cùng lắm cũng chỉ có ba trăm cái, chỉ cần có thể chạy vọt vào trong trận địa của quân Giang Bắc, đại quân Bắc Mạc liền xoay chuyển thế cục. Mà kỵ binh khi tấn công vào trận địa của bộ binh, nhằm vào cánh phải của đối phương là có lợi nhất. Bởi vì thế trận trường thương mặc dù có thể khắc chế kỵ binh, nhưng trận địa biến hóa không linh hoạt, nếu kỵ binh đối phương đột nhiên thay đổi phương hướng tấn công, tốc độ đối phương sử dụng thuẫn và binh khí cũng chậm chạp lại. Cho nên, trong rất nhiều hướng trận của kỵ binh, quan trọng nhất chính là đối diện với tấm thuẫn.

Mà mọi người đều biết, cách dùng đao thuẫn thông thường đều là tay trái cầm thuẫn, tay phải cầm đao. Phòng ngự cánh trái vì vậy rất thuận tiện, chỉ cần nhẹ nhàng di động cánh tay trái là có thể hướng tấm thuẫn về phía kỵ binh, che chắn cho bản thân. Nhưng nếu đối phương đánh sâu vào cánh phải, đao thuẫn thế nào cũng không thể đổi chỗ cho nhau được, một khi đã như vậy, đao thuẫn sẽ không thể bảo vệ mình mà phơi bày phía sau lưng cho đối phương, một khi trong tay đối phương còn dư thừa kỵ binh, hậu quả thật không dám tưởng tượng.

Không thể không nói, là một tướng lãnh kỵ binh, Thường Ngọc Thanh chỉ huy vô cùng xuất sắc, đáng tiếc, mọi chuyện trên đời thường hay thay đổi. Chiến xa quân Giang Bắc sau khi bắn ra một loạt tên nỏ cuối cùng, những binh lính điều khiển xe lập tức đẩy xe rút sang hai cánh. Hắc Diện mọi ngày huấn luyện quân hà khắc rốt cục cũng thấy được hiệu quả, những cỗ xe được đẩy đi rất nhanh, chỉ trong chớp mắt đã dùng xe bày thành trận địa bảo vệ binh lính ở hai cánh, tiếp tục bắn tên nỏ. Đồng thời, kỵ binh quân Giang Bắc vẫn chờ ở phía sau trận liền phóng ngựa vọt ra.

Hai cánh là sàng nỏ bắn tên dày đặc, phủ đầu là lang nha bổng giáng xuống bốn bề, thiết kỵ Bắc Mạc chưa bao giờ gặp phải kiểu tấn công như thế này, đội hình nhanh chóng rối loạn. Nhưng thiết kỵ Bắc Mạc có thể xưng bá thiên hạ, chắc chắn phải có chỗ hơn người, hơn nữa, kỵ binh quân Giang Bắc mặc dù dũng mãnh lại cũng không ham chiến, chỉ đột phá vào trong trận địa của kỵ binh Bắc Mạc một phen rồi ngay lập tức rút đi, cho nên, kỵ binh Bắc Mạc mặc dù tổn thất không ít, lại vẫn vọt được tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc.

Nhưng, bọn họ cũng rất nhanh liền phát hiện ra rằng phe mình tuy đã vọt tới trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, lại bị chiến xa ngăn cản.

Không biết từ khi nào thì chiến xa của quân Giang Bắc lại từ hai cánh đẩy trở lại, những tấm bình phong vốn vẫn đặt ở càng xe đã được mở ra, dựng ở một bên bánh xe thành một chiếc hộp lớn, mấy trăm cỗ chiến xa có thể sóng vai nối liền nhau, xếp thành một trận địa vòng tròn ngăn kỵ binh Bắc Mạc ở bên ngoài.

Hàng trăm mũi tên nỏ trong xa trận đồng loạt bắn ra, kỵ binh Bắc Mạc lại trở thành bia ngắm.
——————————

Chú thích:
1- Tiết lập xuân: Tiết Lập xuân là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Theo quy ước, tiết lập xuân là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 2 (dương lịch) khi kết thúc tiết đại hàn và kết thúc vào khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết vũ thủy bắt đầu.
Ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác gần khu vực xích đạo ở Bắc bán cầu Trái Đất.
Hàng năm chỉ có 1 tiết Lập xuân kéo dài khoảng 2 tuần là hết. Tiết Lập xuân thường vào cuối năm cũ đến đầu năm mới (năm âm lịch).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét