Vừa dứt lời, chàng ta đã đứng phắt dậy. Tôi ngơ ngác nhìn chàng chẳng khác nào một đứa nhóc con nghịch ngợm, giương tay lộn mèo một phát. Tôi thấy cả người chàng đã vọt lên, cứ như một ngôi sao—không, không, giống thế nào được với sao băng, nom chàng ta chực lao thẳng xuống bãi sông luôn ấy. Bất thình lình, chàng khua tay, tôi thấy bàn tay chàng đã nắm chặt một túm phải đến vài con đom đóm, đám ranh mãnh ấy tỏa đốm sáng li ti lập lòe giữa những kẽ tay, tôi đùm vạt áo dài, cuống quýt bảo: "Mau lên! Mau lên!" Chàng thả túm đom đóm vào trong cái bọc mà tôi đùm bằng vạt áo, tôi trông chàng lại vọt lên phát nữa, võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, giống như một bài thơ, chấm phá truyền thần thoải mái không hề gò bó. Nhất cử nhất động của chàng như thể đang nhảy múa, thật trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái hào hùng đến thế. Chàng ta tung mình giữa chừng không, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đóm đóm chớp nháy không ngừng kia. Ống tay áo khẽ gợn làn gió, tôi chỉ hướng cho chàng: "Bên trái! Bên phải có nhiều lắm kìa!" "Ối!" "Nó chạy mất tiêu rồi! Bên kia!! Trời ơi đằng đó một đống!"
...
Tiếng cười của đôi tôi dạt đến tít bở sông xa, đống đom đóm gộp trong vạt áo mỗi lúc một nhiều, nhiều lắm, chúng chụm nhau lại cùng tỏa thứ ánh sáng lóng lánh, như thể trong lòng tôi đang đùm một vầng trăng rằm. Bầy đom đóm ven sông dạt đi mất hút, chúng bị Cố Tiểu Ngũ tóm sạch đặt cả trong lòng tôi.
"Đủ 100 con chưa?" Chàng tiến lại gần, đầu kề sát đầu tôi, những ngón tay thon dài vạch một mép vạt áo, "Có cần đếm không nhỉ?"
Chúng tôi vừa đếm được chừng mười mấy con, trên người Cố Tiểu Ngũ thoảng làn hương mát lành dịu nhẹ, thứ mùi thơm ấy không thấy có ở người Đột Quyết lẫn người Tây Lương, nó cứ chờn vờn khiến tôi mất cả tự nhiên, khuôn mặt hình như còn nóng bừng, chàng đứng bên tôi gần quá. Bỗng đâu có trận gió bùng lên, có sợi tóc của chàng phẩy hờ trên mặt tôi, nhẹ, mềm, mà rộn rạo, tay nâng vạt áo cầm lòng không đặng thế rồi chỉ vừa bung lỏng mà bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, đốm sáng vương vãi hóa thành vô số những vệt sao sao băng li ti, nhoáng cái những vệt sao băng đã vây quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, ánh sáng rạng rỡ tưới lên khuôn mặt chúng tôi, tôi nhìn thấy đôi mắt đen lay láy của chàng, mà đôi mắt ấy cũng đang nhìn tôi. Tôi nhớ mấy gã hay đứng hát ngoài lều A Độ, bọn họ cũng trông A Độ bằng ánh nhìn nóng rẫy như lửa kiểu này đây, nom khiến người ta quả thật phải mủi lòng. Thế mà ánh mắt của Cố Tiểu Ngũ ôn tồn hơn hẳn, ánh mắt đong đầy bóng hình tôi, bỗng dưng một nơi nào đó trong lòng đã khẽ xốn xang, cảm giác nửa dễ chịu nửa không. Ánh mắt đôi bên giao nhau, bỗng nhiên chàng trở nên thẹn thùng, ngoảnh mặt nhìn đom đóm trên trời, bảo: "Bay cả rồi!"
Tôi bất giác nói: "Giống sao băng nhỉ!"
Chàng cũng cười ha hả: "Sao băng à!"
Đom đóm giăng màn trời, chẳng khác nào vô vàn đốm sao băng vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi, cái lúc thần tiên trên trời rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng. Tình này cảnh này tựa là mơ. Tôi bảo mình vĩnh viễn cũng chẳng thể quên được buổi tối hôm ấy bên bờ sông, chúng tôi quây quần với hàng ngàn hàng vạn đom đóm, chúng khẽ khàng lướt qua, đom đóm lần lượt tỏa đi bốn phương tám hướng, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa con sông, cảnh ấy rực rỡ hoa lệ nhường này chăng.
Tục cưới hỏi của Đột Quyết long trọng song cũng đơn giản, doanh trại quây quần giết mổ biết mấy là thịt cừu, gió đưa rượu nồng thoảng hương nơi nơi. Độ mấy ngày này, Cố Tiểu Ngũ đã kết thân với đằng quý tộc Đột Quyết, người Đột Quyết tôn sùng nhất chính là những bậc anh hùng, trước kia Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, sau này lại thắng được Hách Thất, giờ đây trong suy nghĩ của người Đột Quyết, chàng nghiễm nhiên là vị anh hùng tuổi trẻ đầy triển vọng. Thầy tế xướng điệu ca tụng đầy hân hoan, chúng tôi đạp lên nỉ đỏ, từ từ tiến lên đài cao thờ thánh thần phía thầy tế. Chính lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập vọng lại, lính trinh sát lăn long lóc chạy lại đằng Đại Thiền Vu đang ngồi.
Lướt qua đám đông huyên náo, tôi thấy đôi mày Đại Thiền Vu châu đầu lại với nhau, bất chấp vị thầy tế đang căng giọng ca tụng, tôi chạy đến chỗ Đại Thiền Vu: "Ông ơi!"
Đại Thiền Vu xoa đầu tôi, đoạn mỉm cười bảo: "Không sao cả, vua Nguyệt Thị sai đám người đến mắng vốn thôi, tiện đây ông cũng sai lính đi tống cổ chúng."
Không biết từ lúc nào, Cố Tiểu Ngũ tiến đến đứng sau lưng tôi, chàng khom mình chấm vai thi lễ theo kiểu Đột Quyết: "Bẩm Đại Thiền Vu, xin ngài cho phép cháu được ra đó."
"Cháu?" Đại Thiền Vu ngước nhìn chàng, "Vua Nguyệt Thị có 5 vạn quân," Vả lại vua Nguyệt Thị là lão tướng từng trải chốn sa trường, tài bắn tên tinh thông của Cố Tiểu Ngũ là lẽ đã đành, song đối mặt với hàng ngàn hàng vạn quân địch, chỉ e tài bắn tên có tinh thông mấy cũng chẳng ích gì.
"Vậy Đại Thiền Vu nên dụng kế 'lấy nhàn rỗi đối phó mỏi mệt', bằng cách sai 3 vạn kỵ binh ra nghênh địch." Cố Tiểu Ngũ nói, "Nếu như Đại Thiền Vu không yên tâm, xin ngài cử 1 viên tướng quân, cháu sẽ áp sát thế trận, nếu có thể ngấm ngấm bắn lén từ đằng sau, khiến trận tuyến của Nguyệt Thị hỗn loạn, cũng xem như đã góp được chút công mọn."
Đại Thiền Vu vẫn đương do dự, Hách Thất lại bẩm: "Binh pháp của Trung Nguyên rất chuẩn xác, trên đường đi, chính bọn họ dẫn người đánh bại quân Nguyệt Thị."
Cuối cùng, Đại Thiền Vu gật đầu, đoạn bảo Cố Tiểu Ngũ: 'Đi đi rồi đem thủ cấp tướng lĩnh Nguyệt Thị về làm tế phẩm hôn lễ của các cháu dâng lên Thánh thần."
Cố Tiểu Ngũ chiếu theo lễ tiết của Trung Nguyên, quỳ lạy đoạn thưa: "Mong trời đất phù hộ Đại Thiền Vu!" Lúc chàng đứng dậy, nhìn tôi rồi bảo: "Ta đi rồi trở về."
Trong lòng tôi bộn bề lo lắng, đánh mắt nhìn chàng quay người trở gót, tôi vội vàng đuổi theo mấy bước, toan lấy dây lưng của mình cài lên eo chàng.
Theo nghi thức hôn lễ, tân lang tân nương trao nhau dây đeo lưng để kết thúc buổi lễ. Hai người chính thức trở thành vợ chồng dưới sự chứng kiến của thần linh. Tôi toan bảo chàng gỡ dây lưng của chàng xuống trao cho tôi, thế mà đám nô tài đã dẫn ngựa của chàng lại. Tôi không kịp nói với chàng dăm câu, chàng đạp lên yên ngựa, đoạn bảo tôi: "Ta đi rồi sẽ về."
Tôi kéo tay áo chàng, lòng bịn rịn không nỡ buông lơi. Tôi chợt nhớ rất nhiều chuyện, nhớ 3 ngày 3 đêm tôi ngồi đợi trên cồn cát, lúc ấy chỉ bởi đợi người con trai này; tôi nhớ lúc tôi ngã ngựa, chàng cứu tôi; tôi nhớ đêm nọ, chàng kể chuyện cho tôi nghe; nhớ chàng đã giết vua sói mắt trắng, còn thắng cả Hách Thất; tôi nhớ bầy đom đóm ven sông, từ dạo ấy, tôi đã hạ quyết tâm mình và chàng mãi bên nhau trọn đời không rời xa... nhưng giờ đây chàng sắp ra trận, tôi cầm lòng không đặng nỗi niềm vấn vương.
Hình như chàng thấy ánh nhìn nơi tôi, môi nở nụ cười, cúi người vuốt ve bầu má tôi. Những ngón tay âm ấm, không phải tay cha, cũng chẳng giống ông ngoại, hóa ra lại có nét như bàn tay mẹ. Tôi chợt nghĩ tài bắn cung của chàng tinh thông là thế, sao trên tay lại chẳng hằn lấy 1 vết chai?
Lúc tôi đương ngờ ngợ, ngẫm lại vài chuyện vụn vặt. Chàng đã rụt tay về, cả đội 3 vạn quân chuẩn bị xong xuôi, vị tướng quân Đại Thiền Vu phái đi dẫn binh là anh cả đằng họ ngoại của tôi, cũng chính là cháu trai Y Mạc Diên của Đại Thiền Vu. Y Mạc Diên cười bảo tôi: "Muội yên tâm đi, huynh sẽ chăm sóc đệ ấy tử tế." Người Đột Quyết bấy lâu nay quen chinh chiến, chuyện xông pha chiến trường với họ đơn thuần chẳng khác nào cơm bữa. Tôi quý người anh họ Y Mạc Diên này lắm, cũng bởi lúc nhỏ anh họ thường dẫn tôi đi săn, anh họ hết mực thương yêu, xem tôi như em gái ruột thịt. Tôi lớn tiếng bảo: "Ai cần huynh chăm sóc chàng ấy chứ? Huynh cứ lo thân mình đi đã, muội đợi huynh về uống rượu đấy!" Mọi người đều rộ cười, họ tíu tít bảo: "Tiểu Công Chúa cứ yên tâm, đến lúc thịt dê nướng xong, chúng tôi sẽ mang thủ cấp của tay Nguyệt Thị về."
Cố Tiểu Ngũ theo sau đuôi cờ của Y Mạc Diên, chàng cũng vận chiến bào da bò của tộc Đột Quyết, khuôn mặt khuất dưới mũ sắt, thấy tôi tìm chàng trong đám đông, chàng cười đoạn giơ tay vẫy. Tôi trông eo chàng thắt chiếc dây lưng, đai lưng của tôi quấn đè lên đai lưng chàng, mới rồi tôi vội vội vàng vàng thắt cho chàng cái nút, tôi không đè được lo nghĩ chốc lát nữa liệu chiếc dây có tuột mất chăng, dây lưng mà bung thì xui xẻo lắm... Thế mà không đợi tôi nghĩ ngợi nhiều, thiên binh vạn mã đã tung vó lao băng băng về đằng chân trời, thoạt đầu còn thấy bóng đổ ngút ngát trải kín tầm mắt, sau cả đạo quân rẽ qua một con dốc, thế là biến mất luôn.
A Độ nom tôi tiu nghỉu đứng mãi chỗ ấy, đành dùng tay ra hiệu với tôi. Tôi hiểu, tôi biết cô bé đang an ủi mình, rằng chỉ chốc nữa thôi là chàng sẽ trở về. Tôi gật đầu, tuy Nguyệt Thị có đến 5 vạn quân, song đống lính tráng ấy lội đường xa đến đây hẳn đã rã rời mệt nhọc, đạo quân tinh nhuệ của Đột Quyết một chọi mười, 3 vạn là đủ để đón đầu. Huống hồ lều chúa còn đây, 10 vạn quân bất cứ lúc nào cũng có thể tức thì tiếp viện.
Dê nướng xèo xèo trên lửa, chúng nô tì dâng sữa ngựa và rượu ngon, nơi nơi rợp tiếng nói cười. Hẳn người ta đều cho rằng, bẵng đi một lúc, thế nào cũng có tin thắng trận báo về và lúc ấy, những binh sĩ của Đột Quyết đang trên đường trở lại. Lòng tôi cứ canh cánh mãi lúc biệt ly, mặt mày không đừng được cái nóng rẫy. Y Mạc Diên về mà thấy, không hiểu sẽ trêu tôi thế nào nữa! Hẳn huynh ấy sẽ bảo tôi không nỡ rời xa Cố Tiểu Ngũ, đợi đến lúc huynh ấy trở về, thế nào cũng đầu têu cho mọi người chế nhạo tôi. Đám thanh niên quý tộc của Đột Quyết thầm coi Mạc Y Diên như người đứng đầu, hội thi hát tối nay, lũ ấy thế nào chẳng ngâm nga trêu đùa. Bụng dạ tôi nao nao buồn phiền, tự nhủ Cố Tiểu Ngũ không biết hát, chàng về, tôi tất phải bảo chàng ngay, kẻo khi đó lại tẽn tò.
Thế mà tôi không hề hay biết, chuyến đi này, họ đi và vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
.
Bẵng đi nhiều năm sau, tôi xem sách sử Trung Nguyên ghi chép lại chuyện ngày nọ. Sơ sài có dăm ba câu vô vị: "Tháng bảy, Thái Tử Thừa Ngân đích thân tiến vào Tây Vực, liên minh cùng chư hầu Nguyệt Thị, bốn mươi vạn đại quân tập kích Đột Quyết, Thiết Nhĩ Cách Đạt Thiền Vu của Đột Quyết hung hãn không chịu hàng, bỏ mạng lúc quân binh loạn lạc. Toàn tộc Đột Quyết bị giết thảy hơn hai mươi vạn người, toàn tộc bị diệt vong."
Ngày đó, tôi cũng quên gần hết, chỉ nhớ Hách Thất trước lúc tắt thở vẫn siết chặt cây cung, trước bụng trước ngực vết đao kiếm chằng chịt, máu tươi xối xả không ngừng, lúc đó xem ra khó qua khỏi. Huynh ấy dốc sức đưa tôi và A Độ lên 1 con ngựa, trăn trối câu cuối cùng: "A Độ, nhớ chăm sóc Công Chúa!"
Tôi trông tên kéo đến đen kìn kịt như làn mưa châu chấu, lại chẳng khác nào hằng hà sa số đốm sao băng, giả sử thần thánh trên cao có buông tay, hẳn khi số sao trong lòng bàn tay ập xuống hết ráo, chúng cũng thế này chăng... A Độ gồng sức quất ngựa đưa tôi cứ chạy, chạy mãi. Bốn bề biển lửa, bốn bề biển máu, bốn bề âm thanh giết chóc. Mấy chục vạn quân Trung Nguyên và Nguyệt Thị như thể vừa chui lên từ lòng đất, dân tộc Đột Quyết dẫu quật cường phản kháng, song cũng không thể địch lại sức tiến công của chúng... Xiết bao người đổ xuống sau lưng chúng tôi, xiết bao máu bắn tóe lên thân thể chúng tôi, ví như không có Hách Thất, chúng tôi hoàn toàn không thể thoát được vòng vây của mấy chục vạn quân kia, có lẽ sau đó Hách Thất cũng bỏ mạng ở lại, tôi và A Độ rong ruổi trên thảo nguyên tròn chặn 6 ngày 6 đêm mới bị toán lính bắt kịp.
Đùi tôi bị thương, mà người A Độ cũng nhiều vết sứt sát, thế nhưng nàng ấy vẫn tuốt đao, che cho tôi ở phía sau. Lòng căm thù như ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, nung nấu thân tôi đến độ khô rát, đầu không ngừng bảo: chính lũ chúng nó, chính lũ chúng nó đã giết ông ngoại; bọn chúng, chính bọn chúng giết Cố Tiểu Ngũ; lũ này, lũ này dồn nhân dân Đột Quyết vào đường diệt vong. Tuy không phải người Đột Quyết, nhưng một nửa dòng máu Đột Quyết đang chảy trong huyết quản tôi. Giờ đây chỉ còn sót lại mình tôi với A Độ, dẫu phải vắt cạn đến giọt máu cuối cùng, tôi cũng không thể khiến ông ngoại bẽ mặt, không thể để nhân dân Đột Quyết mất thể diện.
Lúc đó có gã Trung Nguyên rong ngựa đến, A Độ khua đao xông lên, gã nọ chỉ khẽ khàng nhô tay ra, thanh đao trên tay A Độ đã "phịch" một tiếng đáp trên mặt đất. Tôi lặng người nhìn gã, kẻ này hẳn biết yêu thuật chăng? Không sử dụng tà phép thì sao có thể cướp được đao từ A Độ, mà còn khiến nàng ấy chết trân một chỗ?
A Độ trừng mắt nhìn gã, hiếm khi mới thấy A Độ nổi cơn giận, tôi biết nàng ấy đang tức thật lắm. Tôi nhặt thanh đao lên, vung về phía gã. Tôi đã cáu đến độ bất kể có là ai, mặc xác là ai, tôi cũng phải giết bằng được gã!
Kẻ nọ cũng chỉ giơ tay, điểm nhẹ lên người tôi một cái, thế rồi mắt tối sầm, lúc ấy chẳng còn hay biết gì.
Khi choàng tỉnh, đã thấy đầu mình cắm xuống, cả người vắt ngang yên ngựa như một bao kê, móng ngựa xối bùn lên mặt mũi, ngặt không sao nhúc nhích nổi. Bốn phương tám hướng trông toàn vó ngựa, vô vàn chân ngựa nhấp nhô như cơ man lau cỏ dậy sóng trước gió, tôi chếnh choáng một chặp, mắt mũi nhắm tịt. Chẳng rõ bao lâu sau mới thấy ngựa dừng bước, tôi bị xách khỏi lưng ngựa, khốn nỗi đùi bị điểm huyệt bấy lâu, đứng chẳng còn vững, lúc ấy lăn nhào ra đất.
Nền phủ lớp nỉ dày, hẳn nơi đây là lều trại của tướng lĩnh Trung Nguyên, là của gã quan đô hộ nào đó chăng? Tôi ngước trông lên, ấy thế mà đập vào mắt lại là Cố Tiểu Ngũ, xiết bao dũng sĩ Đột Quyết đã tử trận, nhất là 3 vạn quân Đột Quyết tiên phong đi nghênh địch kia, nào có ai sống sót trở về, thế mà Cố Tiểu Ngũ vẫn còn sờ sờ đấy ư.
Chàng vẫn tồn tại trên đời này, không những vậy, chàng còn khoác trên mình áo quần Trung Nguyên, chẳng đội giáp mà vẫn toát lên vẻ nho nhã của người thư sinh Trung Nguyên, nhưng tôi biết, lều này tuyệt nhiên không phải chỗ cho thư sinh ở. Quanh chàng vây đầy vệ binh, gã tướng lĩnh bắt tôi về – vừa tiến vào đã quỳ lạy Cố Tiểu Ngũ, mũ giáp trên người chà sát những tiếng lanh lảnh, gã dập đầu theo lối lễ tiết tối cao của Trung Nguyên, nghe nói chỉ khi người Trung Nguyên bái kiến bậc quý tôn đứng dầu mới làm lễ này. Thoắt cái tôi chợt hiểu, chính Cố Tiểu Ngũ, thì ra Cố Tiểu Ngũ là nội ứng của Trung Nguyên! Chính chàng, chính chàng dẫn địch tập kích. Chẳng hiểu thu góp sức lực đâu ra, mà tôi gồng được mình phỉ nhổ về phía đó: "Đồ gian tế!"
Lũ vệ binh xung quanh đấy lớn tiếng quát tháo, có kẻ đá vào đùi tôi, đùi tôi nhũn oặt lăn kềnh xuống đất. Tôi thấy gã quan đô hộ đang khom mình vái Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng nói tiếng Trung Nguyên, tôi nghe không hiểu lấy một câu. Song Cố Tiểu Ngũ vẫn chẳng hề liếc phía tôi, gã quan đô hộ nói rất nhiều lời, tôi nom sắc mặt Cố Tiểu Ngũ sa sầm, sau cùng lũ người đó lui khỏi lều, Cố Tiểu Ngũ cầm dao, tiến về phía tôi.
(*)Xưng hô hơi nhộn nhạo, tớ vẫn đang cân nhắc phần xưng hô ;__; đợt xong truyện beta 1 phát cho nuột phần xưng hô. Mọi người tạm phát này, thông cảm cho tớ :(
Tôi cứ tưởng hắn sẽ giết mình, thế mà hắn lại cắt đứt dây da trói tay tôi, đoạn bảo: "Oan cho nàng rồi."
Tôi nghiêng đầu nhìn hắn, giọng gắng vẻ bình tĩnh: "Cố Tiểu Ngũ, rồi sẽ có 1 ngày ta giết ngươi, báo thù cho ông ngoại."
"Thằng phản bội, tuồng gian tế."
Tôi không thốt nổi lời lăng mạ nào thậm tệ hơn, mấy câu sỉ vả cứ nhai đi nhai lại, vậy mà hắn chẳng hề nổi cáu, trái lại còn cười: "Nếu thấy giận, nàng cứ chửi vài câu cho bõ." Tôi nhìn hắn như nhìn 1 người dưng. Cái kẻ đã dắt theo 3 vạn binh sĩ Đột Quyết khởi hành khỏi hôn lễ của chúng tôi đi nghênh chiến. Ngờ đâu kẻ đó thông đồng với Nguyệt Thị, không chỉ 3 vạn quân tinh nhuệ của Đột Quyết bị tiêu diệt sạch sành sanh, bè lũ Trung Nguyên – Nguyệt Thị còn kéo vào nơi lều chúa ở. Ông ngoại trở tay không kịp, bị chúng giết chết, Đột Quyết quả thật đã diệt vong rồi! Hai mươi vạn dân... một cuộc tàn sát, tôi và A Độ gần như tháo chạy khỏi chốn địa ngục trần gian ấy, máu của 20 vạn dân tưới ngập thảo nguyên, mà kẻ đầu trò cảnh thảm sát kia còn đương nhởn nhơ đứng đây.
Tôi mắng chửi đến kiệt sức, co quắp một chỗ, song vẫn tự hỏi rốt cuộc lòng dạ hắn được đúc từ thứ sắt đá gì. Tôi mệt bã nhìn hắn, đoạn hỏi: "Bấy lâu nay chàng vẫn lừa ta, sao bây giờ không giết quách ta đi?" Hắn đưa mắt liếc tôi, bao lâu sau mà không hề lên tiếng, rồi lại một lúc nữa, bỗng dưng quay ngoắt đi, mặt trông ra khoảng nắng luồn ô cửa, xiên qua bức mành rèm. Bụi ám tấm rèm ngả xám, chẳng còn vẹn nguyên màu trắng tinh tươm như thưở đầu, nắng chớm thu in vết trên nền nhà sáng ngờ, đổ xuống cái bóng của đôi tôi. Hắn vươn tay chụp lấy cổ tay tôi, tay tôi yếu ớt buông rơi con dao nhỏ vừa mới rút ra xong. Con dao ấy của hắn, chính là con dao kết nghĩa với Hách Thất, là con dao Hách Thất dúi vào tay tôi lúc về sau. Tôi và A Độ khốn cùng bi đát suốt dọc đường, tôi vẫn giấu con dao này trong mình, định bụng đến thời khắc bức bách nhất sẽ lôi ra tự sát, tránh bị giặc làm nhục. Bước đến giữa trướng, hắn nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, đoạn bảo: "Nàng đừng làm những chuyện ngốc nghếch thế." Chuyện ngốc nghếch ư? Tôi gần như chỉ muốn phá ra cười, đời này còn ai ngốc hơn tôi nữa? Kẻ nhẹ dạ cả tin tôi đây suýt nữa đã lấy cái gã gian tế mà Trung Nguyên phái tới, tôi còn đinh ninh hắn bỏ mạng trong cuộc chiến với Nguyệt Thị, tôi còn nuôi hận báo thù hộ hắn.
Chính giữa lúc ấy, bất thình lình có người bước vào bẩm với Cố Tiểu Ngũ mấy câu tiếng Trung Nguyên. Nom mặt hắn biến dạng, hắn nhấc con dao bé xíu lên, quẳng lại tôi rồi mau chóng rảo bước ra ngoài. Tôi rệu rã phủ phục dưới sàn. Cũng chẳng rõ bao lâu sau, có người lẹ làng kéo áo gọi tên tôi: "Tiểu Phong!" Ngoảnh lại thì trông thấy sư phụ, không kiềm được mừng vui khôn xiết, tôi túm chặt tay sư phụ, hỏi: "Sao thầy ở đây?" Sư phụ bảo: "Nơi này không nói nhiều được, ta mang nàng trốn trước đã." Thầy vung kiếm rạch một đường lên vải bạt, chúng tôi ra từ lối sau lều. Đằng kia đã cột vài con ngựa, hai người lên ngựa, lúc sắp thoát khỏi doanh trại, bỗng tôi nhớ ra: "A Độ!" Còn A Độ nữa!"
"A Độ nào?"
Tôi bảo: "A Độ là em gái Hách Thất, cô bé đó luôn bảo vệ ta, ta không thể bỏ mặc nàng ấy được." Sư phụ chịu thua, đành dẫn tôi lộn về tìm A Độ. Chúng tôi kiếm A Độ trong trại nhốt tù binh. Có điều lại đánh động tới lính canh. Tuy kiếm pháp của sư phụ rất giỏi, song đã sa chân vào chốn doanh trại này rồi thì chém giết không ngơi nổi tay, khó mà thoát được cái thân. Đồn trú đã rấy tiếng xôn xao, người từ bốn bề đổ đến càng lúc càng đông, thấy thế bất lợi, sư phụ đành vừa đánh vừa lui, rút về phía chuồng ngựa, thầy quệt 1 mồi lửa quẳng vào đống rơm.
Tàu ngựa của đại doanh chất cơ man là rơm khô làm thức ăn nuôi ngựa, đống này mà bùng lên thì chỉ nháy mắt thôi lửa sẽ lan hừng hực khó bề dập ngay được. Cả doanh trại lập tức nhốn nháo cả lên, quân binh hấp tấp đi dập lửa, chớp thời cơ ấy, cuối cùng sư phụ mang tôi và cả A Độ tháo chạy. Kỷ luật nhà binh của Trung Nguyên rất nghiêm, chỉ thoáng chốc ngắn ngủi, tiếng huyên náo trong doanh trại đã dần lắng xuống, vẫn có kẻ cấp tốc cứu hỏa, có một đám khác lại phi ngựa đuổi theo chúng tôi.
Cứ vừa đánh vừa lui cho đến tận chân núi Thiên Hằng, đám quân truy đuổi kéo tới mỗi lúc một đông. Tôi trông bọn lính ấy kéo cờ hiệu màu mơ, trên có viết chữ Trung Nguyên mà tôi không hiểu, liền hỏi sư phụ: "Đám này là người của phủ đô hộ An Tây à?" Quân đóng ở phủ đô hộ An Tây có lực lượng hùng hậu, song không ngờ bọn chúng giao chiến cũng lợi hại vậy.
Gò má sư phụ có vết máu bắn, tính thầy ưa sạch sẽ, vội giơ tay quệt ngang vệt máu, đoạn cười nhạt không ngớt: "Phủ đô hộ An Tây làm gì có nhiều kị binh đến thế... Lũ này là quân Vũ lâm của Đông Cung, mà Trung Nguyên vẫn gọi Vũ lâm lang, thảy là bọn con nhà quan, đợt này ra biên thùy là muốn kiếm công danh bổng lộc đây mà. Nàng xem, đứa nào đứa nấy hùng hổ lao đầu lên, toàn định bụng lập công lớn cả đấy."
Tôi hỏi: "Công gì lớn?"
Thầy nói: "Bắt sống nàng đã là một chiến công rồi."
Xưa nay tôi đâu từng nghĩ mình lại quan trọng đến thế. Lũ Vũ lâm quân kia truy đuổi tôi đến cùng, chúng không ngừng buông lời xỉ vả, có đứa nói tiếng Tây Lương theo kiểu quái đản, chửi chúng tôi chỉ biết cúp đuôi bỏ chạy. Phải như lúc bình thường, thế nào tôi cũng bị kích đến độ sấn sổ quay ngoắt lại, có điều, sau một chuỗi những vấp váp, cuối cùng tôi đã hiểu ra, một kẻ đứng giữa vạn quân chỉ như hạt muối bỏ bể, hoặc thoảng là cây cỏ trước cơn bão, không một ai có thể ngăn được thế tấn công của thiên binh vạn mã. Ông ngoại không thể, Hách Thất không thể, và sư phụ cũng thế cả thôi.
Trời ập tối lúc chúng tôi đã rút lên núi Thiên Hằng, đạo quân kia không tiện lên núi, chỉ dừng lại dưới chân. Từ sau núi đá nhìn xuống, chân núi đã đốt lốm đốm lửa trại, gần đó, đạo quân tiếp viện từ doanh trại kéo đến liên tục, chúng đốt đuốc nối đuối nhau tạo thành thân rồng lửa đổ ngoằn ngoèo. Cuối cùng tôi vẫn hỏi sư phụ: "Cố Tiểu Ngũ là ai?"
"Hắn vốn không mang họ Cố." giọng thầy đượm sự yên ả như thường lệ, "Hắn là Lí Thừa Ngân, là người con thứ năm của hoàng đế Trung Nguyên, mà hiện nay cũng là Đông Cung Thái Tử đương triều." Tôi chỉ ngờ ngợ việc Cố Tiểu Ngũ hẳn không chỉ là tiểu thương buôn chè, sự việc xảy ra xong, tôi vẫn lờ mờ đoán có lẽ hắn là tướng quân triều đình Trung Nguyên, nhưng có điều hắn còn trẻ quá. Tướng quân nức tiếng Trung Nguyên không nhiều lắm, mà chẳng nghe nói có vị tướng quân nào mang họ Cố. Thì ra vốn dĩ hắn không phải họ Cố, chẳng những thế, mà thân phận còn lừng lẫy thế này đây.
Tôi chẳng rõ mình đang muốn khóc hay muốn cười nữa.
Tôi nhớ lại chuyện Trung Nguyên phái sứ thần tới, lúc đó sứ thần thay mặt Thái Tử Trung Nguyên đến cầu thân. Vì đâu đến nông nỗi này? Trước kia tuy tôi không mấy thiện cảm với Trung Nguyên thật, song cũng chẳng bằng được như bây giờ, bây giờ, tôi căm thù Trung Nguyên đến tận xương tủy.
"Sao hắn lại nói mình họ Cố?" Thầy trù trừ một lúc, tôi còn chẳng ngờ nổi thầy cũng biết trù trừ cơ đấy, thế mà sau đó, thầy nói cho tôi nghe sự thực: "Bởi vì mẹ hắn mang họ Cố." Tôi nhìn sư phụ, thực ra, trong bóng tối đen kịt, chẳng thấy được gì, giọng thầy trầm mà đều: "Đúng vậy, từ lâu nàng đã biết ta cũng họ Cố, mẫu thân hắn là Thục Phi, còn là cô ruột của ta. Thế nên thực chất, ta cũng chẳng phải người tốt, bệ hạ phái hắn đến biên cương Tây Vực, hắn lại sai ta âm thầm trà trộn vào Tây Lương giúp hắn làm nội ứng..."
Đầu óc rối tinh rối mù, ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng cố nhớ ra được cái tên của thầy, tôi bình tĩnh gọi hẳn ra thành tiếng: "Cố Kiếm!" đoạn mới hỏi, "Vậy, thầy định bao giờ thì giết ta, hoặc bao giờ mới giao ta lại cho Thái Tử điện hạ đây?"
Cố Kiếm không đáp lời, lẩn khuất giữa đêm đen mà tôi vẫn thoáng thấy khóe môi thầy nhích cười đượm buồn. Thời gian trôi đi bao lâu, thầy mới bảo: "Nàng thừa biết ta sẽ không làm vậy."
Sự thù hận trong lòng phừng phực bùng cháy chẳng khác nào ngọn lửa, ngọn lửa ấy nuốt chửng trái tim tôi, tôi siết chặt nắm đá dăm, những cạnh sắc nhọn của đám vụn vỡ không ngần ngại cắm sâu vào lòng bàn tay. Tôi nghe giọng mình ai oán: "Lũ Trung Nguyên các người, còn gì mà không dám làm? Các người lừa lọc ta bấy lâu nay! Cố Tiểu Ngũ lừa ta, chính ngươi cũng lừa ta hết lần này đến lần khác! Hẳn các người tính kế này ngay từ đầu lúc quen biết rồi phải không? Lũ các người còn gì không làm nổi nữa đâu! Ngươi lừa ta từ đầu chí cuối, uổng công Phụ vương ta tin tưởng ngươi! Uổng công ta tôn ngươi làm thầy..."
Tôi chẳng còn biết mình đang nói gì, tôi chửi bới ra rả, tôi chửi toàn Trung Nguyên rặt 1 lũ bịp bợm. Thế mà thực ra, trong lòng tôi hiểu rằng, tôi chỉ hận có mình Cố Tiểu Ngũ, sao hắn lại đối xử với tôi thế này. Chưa bao giờ tôi thấy mình căm ghét mãnh liệt đến vậy, chẳng thà Cố Tiểu Ngũ cứ giết quách tôi đi, chẳng đành thầy đừng cứu tôi, biết đâu tôi đã sớm chết... Tôi chửi chán, chửi đến mệt lử. Tôi nhìn Cố Kiểm, mỉa mai bảo: "Lần này thầy cứu ta, thầy định lạt gì buộc gì chăng... rồi mai sau vừa hay đến gặp Hoàng đế Trung Nguyên lĩnh thưởng?"
Thầy nhìn tôi, bẵng đi một lúc rất lâu, thầy mới lên tiếng: "Tiểu Phong, đúng là khi quen biết nàng ta rắp tâm, trước kia ta luôn lừa nàng, thế nhưng... thế nhưng lần nào lừa nàng cũng khiến ta thấy buồn khôn cùng. Nàng vẫn chỉ là một đứa trẻ, bất kể ta nói thế nào, nàng cũng tin, ta càng lừa nàng, trong lòng ta càng thêm áy náy. Khi gửi bồ câu đưa thư cho Lí Thừa Ngân, thực chất lúc ấy, ta mong mỏi hắn mãi mãi đừng đến... Nàng ngồi đợi trên cồn cát, thực ra ta đứng cách nàng không xa, ta đứng đó đợi cùng nàng, đợi mãi đợi đứt ba ngày ba đêm...trăng ngày ấy đổ tràn xuống khuôn mặt nàng, ta trông sắc mặt nàng lúc đó hệt như lúc nàng hát bài con cáo nhỏ..." Giọng hắn thấp dần, "Ta biết bản thân mình mê muội...rõ ràng nàng chỉ là một đứa trẻ... thế nhưng khi đấy, thật tình ta chỉ mong Lí Thừa Ngân vĩnh viễn đừng xuất hiện, cứ thế, nói không chừng ta đã mang nàng bỏ trốn...Dẫn nàng đến một nơi nào đó, rời xa Tây Lương... Thế mà sau đó hắn lại đến, tất cả đều hành động theo kế hoạch đã vạch trước, ta buộc lòng phải tạm né tránh nàng... ta không biết nữa... vốn dĩ ta vẫn ôm một phần nhỏ hy vọng, chỉ cầu rằng nàng chưa chắc sẽ thích hắn... thế nhưng... lúc Lí Thừa Ngân sắp đi giết vua sói, ta đã hiểu, sự tình không còn đường lui nữa rồi. Chính ta đã giúp hắn giết con sói dữ kia, sói cắn đùi hắn bị thương, ta đã nói: điện hạ, hà cớ gì phải vậy? Thực chất trong lòng ta khinh bỉ chính mình hơn bao giờ hết, ta làm tất cả chuyện này, hà cớ gì...Ta biết hắn giết vua sói hòng đi gặp nàng. Ta giúp hắn, chính ta đã đẩy nàng vào lòng hắn..."
Tôi không còn hiểu nổi những gì thầy nói, sắc mặt thầy lộ rõ vẻ thê thảm, sau cùng chỉ bảo: "Tiểu Phong, ta có lỗi với nàng."
Tôi nín lặng, trên đời này không một ai có lỗi với tôi cả, mà chỉ riêng mình tôi có lỗi với tất cả.
Tôi có lỗi với ông ngoại, tôi cõng rắn cắn gà nhà, vì tôi mà ông tin tưởng Cố Tiểu Ngũ, dẫn tới toàn quân bại trận.
Tôi có lỗi với Hách Thất, nếu như không vì tôi, huynh ấy đã chẳng bỏ mạng.
Tôi có lỗi với A Độ, nếu như không vì tôi, nàng ấy đã chẳng bị tổn thương.
Tôi có lỗi với toàn thể nhân dân Đột Quyết, tất cả đều là người thân của tôi, chính tôi đã đẩy họ vào đường cùng diệt vong.
Trên đời này, chẳng một ai có lỗi với tôi cả, trừ Cố Tiểu Ngũ... Nhưng không sao, rồi mình sẽ giết hắn, thế nào mình cũng lựa thời cơ giết bằng được hắn... Tôi ngước nhìn sao trời, xin được thề với thánh thần rằng, rồi sẽ có ngày tôi giết hắn.
Trời tảng sáng tôi đã chợp mắt được một chập, tiếng trống hạt dưới chân núi khiến tôi bừng tỉnh, tôi mở mắt thấy A Độ bật dậy. Mà sắc mặt Cố Kiếm nặng trĩu, đoạn bảo A Độ: "Dẫn Công Chúa đi."
"Ta không đi." Tôi ngang ngược nói, "Chết thì cả 3 cùng chết."
"Ta phải đánh lạc hướng địch, A Độ sẽ đưa nàng đi." Cố Kiếm tuốt kiếm, giọng bình tĩnh bảo, "Bản tính Lí Thừa Ngân rất cứng rắn, lẽ nào nàng vẫn mong đợi hắn thực lòng với nàng ư? Nếu nàng rơi vào tay hắn, chẳng qua càng tạo vốn liếng cho công cuộc bình định Tây Lương của hắn."
Tây Lương!
Tôi chỉ thiếu điều nhảy dựng lên, Cố Kiếm nhìn tôi trong khi tôi hoàn toàn líu lưỡi: "Hắn còn định tấn công Tây Lương sao?" Cố Kiếm bật cười: "Đối với bậc đế vương mà nói, thiên hạ này biết thưở nào mới có tận cùng?" Tôi không thốt nổi lời nào, tiếng trống hạt thình thình thình gióng quá 3 hồi, quân Trung Nguyên dưới núi đã bắt đầu xung phong.
Cố Kiểm bảo: "Đi mau!"
Tuy A Độ bị trầy trụa, song thân thủ vẫn khá linh hoạt, nàng ấy kéo tôi leo lên núi đá, tôi vội vàng ngoái lại, chỉ kịp thấy Cố Kiếm đứng trên mỏm đá, nắng sớm mai phủ chụp thân mình, bộ bào trắng đương vận đã vấy máu đào, trải qua cả 1 đêm, máu se màu nâu đen. Gió thốc tay áo, thầy đứng trong nắng sớm như một pho tượng tay lăm lăm trường kiếm. Tôi nghĩ đến những gì thầy nói đêm qua, tưởng chừng hệt một cơn mộng mị. Rồi tôi chợt nhớ dạo đầu khi chúng tôi vừa quen biết nhau, lúc ấy thầy cứu một đứa bé trước vó ngựa lồng, áo trắng của thầy ngã lăn trên đất, bụi vàng nhuộm màu áo, thế mà lúc ấy thầy vẫn oai phong lẫm liệt như thể đủ tài chống đỡ thảy những sự trời long đất lở trên đời này. Chuyện lúc đó cũng hệt một giấc mơ. Mọi việc đã xảy ra trong những ngày gần đây, đối với tôi mà nói, tất cả như một cơn ác mộng.
Tôi và A Độ trốn trong núi, ban ngày thì ẩn náu, ban đêm tiếp tục chạy. Quân Trung Nguyên sục sạo khắp nơi, nhưng chúng tôi lanh lẹ lẩn tránh, tạm thời chúng không thể bắt được. Tôi và A Độ náu trên núi nhiều ngày, khát thì vét tuyết làm nước uống, đói thì đào hốc chuột, trong đó lúc nào cũng dự trữ đủ hạt và quả khô, ăn đỡ xót ruột. Chẳng hay Cố Kiếm còn sống hay đã chết, mà cũng không biết mình lẩn trên núi được bao ngày rồi.
Trời đã vào tháng 8, tuyết bắt đầu rơi. Dường như chỉ trong 1 đêm mà tuyết bao bọc cả núi Thiên Hằng, băng tuyết xuất hiện khắp nơi, bôi màu cỏ vàng xanh héo úa thành trắng xóa. Tuyết rơi, ngọn núi này không còn là chỗ thích hợp để trú ẩn, thậm chí loài linh dương đã không còn ra ngoài kiếm ăn nữa. Gió đêm trên núi thổi đến độ khiến con người ta hoàn toàn có thể chết cóng. Trước đợt tuyết rơi, đoán chừng toán quân Trung Nguyên sẽ rút hẳn, sở dĩ quân đồn trú dưới tuyết lâu, sa vào tình cảnh cạn kiệt lương thực đường nhiên là chuyện vô cùng đáng sợ, kẻ tướng quân đứng đầu không thể không cân nhắc. Tôi và A Độ náu trên núi thêm 2 ngày, không thấy có dấu vết lùng sục nữa, mới quyết định liều xuống núi xem.
Mà số chúng tôi cũng may, xuống núi xong đi cả 1 ngày đường về phía Nam, lại gặp được dân du mục. Ông ta đun chảy nước tuyết cho chúng tôi rửa mặt mũi chân tay, còn luộc thịt dê mời chúng tôi ăn. Nom tôi và A Độ nhếch nhác như 2 kẻ người rừng, ẩn mình trên núi lâu ngày, mãi chưa được 1 bữa no nê, tuyết trên núi càng khó đun. Ngồi trong lều ấm cúng uống sữa dê, tôi và A Độ nom y hệt người vừa trở về từ địa ngục. Tuy người đàn ông du mục này là dân Nguyệt Thị, song đồng cảm lắm với tình cảnh của Đột Quyết, ông ta tưởng chúng tôi là nữ tù nhân vừa trốn khỏi Đột Quyết, thế nên đối đãi với chúng tôi rất tốt. Ông ta bảo đại quân Trung Nguyên đã rút về phía Nam rồi, có mấy ngàn người Đột Quyết cũng tháo chạy cả về đằng Tây.
Tôi không còn nghĩ được gì nhiều nhặn, sữa nóng đun chảy mọi ý định trả thù, tôi biết, nếu chỉ dựa vào có tôi và A Độ e chẳng cách nào chống cự nổi bọn người Trung Nguyên, chứ đừng nói đến chuyện báo thù cho ông ngoại. Tôi quyết định dẫn A Độ về Tây Lương, tôi nhớ phụ vương lắm, tôi càng nhớ mẹ hơn. Tôi vội nghĩ phải về được Vương Thành, rồi kể cho Phụ vương nghe toàn bộ chuyện ở Đột Quyết, bảo người dù sao cũng phải cẩn thận đề phòng bè lũ Trung Nguyên. Ông ngoại mất rồi, mẹ hẳn sẽ đau lòng lắm, tôi chỉ muốn được gặp mẹ ngay bây giờ, rồi an ủi mẹ. Đành rằng ông ngoại không còn trên đời này nữa, song mẹ vẫn còn có tôi bên mình mà.
Tôi nghiêng đầu nhìn hắn, giọng gắng vẻ bình tĩnh: "Cố Tiểu Ngũ, rồi sẽ có 1 ngày ta giết ngươi, báo thù cho ông ngoại."
"Thằng phản bội, tuồng gian tế."
Tôi không thốt nổi lời lăng mạ nào thậm tệ hơn, mấy câu sỉ vả cứ nhai đi nhai lại, vậy mà hắn chẳng hề nổi cáu, trái lại còn cười: "Nếu thấy giận, nàng cứ chửi vài câu cho bõ." Tôi nhìn hắn như nhìn 1 người dưng. Cái kẻ đã dắt theo 3 vạn binh sĩ Đột Quyết khởi hành khỏi hôn lễ của chúng tôi đi nghênh chiến. Ngờ đâu kẻ đó thông đồng với Nguyệt Thị, không chỉ 3 vạn quân tinh nhuệ của Đột Quyết bị tiêu diệt sạch sành sanh, bè lũ Trung Nguyên – Nguyệt Thị còn kéo vào nơi lều chúa ở. Ông ngoại trở tay không kịp, bị chúng giết chết, Đột Quyết quả thật đã diệt vong rồi! Hai mươi vạn dân... một cuộc tàn sát, tôi và A Độ gần như tháo chạy khỏi chốn địa ngục trần gian ấy, máu của 20 vạn dân tưới ngập thảo nguyên, mà kẻ đầu trò cảnh thảm sát kia còn đương nhởn nhơ đứng đây.
Tôi mắng chửi đến kiệt sức, co quắp một chỗ, song vẫn tự hỏi rốt cuộc lòng dạ hắn được đúc từ thứ sắt đá gì. Tôi mệt bã nhìn hắn, đoạn hỏi: "Bấy lâu nay chàng vẫn lừa ta, sao bây giờ không giết quách ta đi?" Hắn đưa mắt liếc tôi, bao lâu sau mà không hề lên tiếng, rồi lại một lúc nữa, bỗng dưng quay ngoắt đi, mặt trông ra khoảng nắng luồn ô cửa, xiên qua bức mành rèm. Bụi ám tấm rèm ngả xám, chẳng còn vẹn nguyên màu trắng tinh tươm như thưở đầu, nắng chớm thu in vết trên nền nhà sáng ngờ, đổ xuống cái bóng của đôi tôi. Hắn vươn tay chụp lấy cổ tay tôi, tay tôi yếu ớt buông rơi con dao nhỏ vừa mới rút ra xong. Con dao ấy của hắn, chính là con dao kết nghĩa với Hách Thất, là con dao Hách Thất dúi vào tay tôi lúc về sau. Tôi và A Độ khốn cùng bi đát suốt dọc đường, tôi vẫn giấu con dao này trong mình, định bụng đến thời khắc bức bách nhất sẽ lôi ra tự sát, tránh bị giặc làm nhục. Bước đến giữa trướng, hắn nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, đoạn bảo: "Nàng đừng làm những chuyện ngốc nghếch thế." Chuyện ngốc nghếch ư? Tôi gần như chỉ muốn phá ra cười, đời này còn ai ngốc hơn tôi nữa? Kẻ nhẹ dạ cả tin tôi đây suýt nữa đã lấy cái gã gian tế mà Trung Nguyên phái tới, tôi còn đinh ninh hắn bỏ mạng trong cuộc chiến với Nguyệt Thị, tôi còn nuôi hận báo thù hộ hắn.
Chính giữa lúc ấy, bất thình lình có người bước vào bẩm với Cố Tiểu Ngũ mấy câu tiếng Trung Nguyên. Nom mặt hắn biến dạng, hắn nhấc con dao bé xíu lên, quẳng lại tôi rồi mau chóng rảo bước ra ngoài. Tôi rệu rã phủ phục dưới sàn. Cũng chẳng rõ bao lâu sau, có người lẹ làng kéo áo gọi tên tôi: "Tiểu Phong!" Ngoảnh lại thì trông thấy sư phụ, không kiềm được mừng vui khôn xiết, tôi túm chặt tay sư phụ, hỏi: "Sao thầy ở đây?" Sư phụ bảo: "Nơi này không nói nhiều được, ta mang nàng trốn trước đã." Thầy vung kiếm rạch một đường lên vải bạt, chúng tôi ra từ lối sau lều. Đằng kia đã cột vài con ngựa, hai người lên ngựa, lúc sắp thoát khỏi doanh trại, bỗng tôi nhớ ra: "A Độ!" Còn A Độ nữa!"
"A Độ nào?"
Tôi bảo: "A Độ là em gái Hách Thất, cô bé đó luôn bảo vệ ta, ta không thể bỏ mặc nàng ấy được." Sư phụ chịu thua, đành dẫn tôi lộn về tìm A Độ. Chúng tôi kiếm A Độ trong trại nhốt tù binh. Có điều lại đánh động tới lính canh. Tuy kiếm pháp của sư phụ rất giỏi, song đã sa chân vào chốn doanh trại này rồi thì chém giết không ngơi nổi tay, khó mà thoát được cái thân. Đồn trú đã rấy tiếng xôn xao, người từ bốn bề đổ đến càng lúc càng đông, thấy thế bất lợi, sư phụ đành vừa đánh vừa lui, rút về phía chuồng ngựa, thầy quệt 1 mồi lửa quẳng vào đống rơm.
Tàu ngựa của đại doanh chất cơ man là rơm khô làm thức ăn nuôi ngựa, đống này mà bùng lên thì chỉ nháy mắt thôi lửa sẽ lan hừng hực khó bề dập ngay được. Cả doanh trại lập tức nhốn nháo cả lên, quân binh hấp tấp đi dập lửa, chớp thời cơ ấy, cuối cùng sư phụ mang tôi và cả A Độ tháo chạy. Kỷ luật nhà binh của Trung Nguyên rất nghiêm, chỉ thoáng chốc ngắn ngủi, tiếng huyên náo trong doanh trại đã dần lắng xuống, vẫn có kẻ cấp tốc cứu hỏa, có một đám khác lại phi ngựa đuổi theo chúng tôi.
Cứ vừa đánh vừa lui cho đến tận chân núi Thiên Hằng, đám quân truy đuổi kéo tới mỗi lúc một đông. Tôi trông bọn lính ấy kéo cờ hiệu màu mơ, trên có viết chữ Trung Nguyên mà tôi không hiểu, liền hỏi sư phụ: "Đám này là người của phủ đô hộ An Tây à?" Quân đóng ở phủ đô hộ An Tây có lực lượng hùng hậu, song không ngờ bọn chúng giao chiến cũng lợi hại vậy.
Gò má sư phụ có vết máu bắn, tính thầy ưa sạch sẽ, vội giơ tay quệt ngang vệt máu, đoạn cười nhạt không ngớt: "Phủ đô hộ An Tây làm gì có nhiều kị binh đến thế... Lũ này là quân Vũ lâm của Đông Cung, mà Trung Nguyên vẫn gọi Vũ lâm lang, thảy là bọn con nhà quan, đợt này ra biên thùy là muốn kiếm công danh bổng lộc đây mà. Nàng xem, đứa nào đứa nấy hùng hổ lao đầu lên, toàn định bụng lập công lớn cả đấy."
Tôi hỏi: "Công gì lớn?"
Thầy nói: "Bắt sống nàng đã là một chiến công rồi."
Xưa nay tôi đâu từng nghĩ mình lại quan trọng đến thế. Lũ Vũ lâm quân kia truy đuổi tôi đến cùng, chúng không ngừng buông lời xỉ vả, có đứa nói tiếng Tây Lương theo kiểu quái đản, chửi chúng tôi chỉ biết cúp đuôi bỏ chạy. Phải như lúc bình thường, thế nào tôi cũng bị kích đến độ sấn sổ quay ngoắt lại, có điều, sau một chuỗi những vấp váp, cuối cùng tôi đã hiểu ra, một kẻ đứng giữa vạn quân chỉ như hạt muối bỏ bể, hoặc thoảng là cây cỏ trước cơn bão, không một ai có thể ngăn được thế tấn công của thiên binh vạn mã. Ông ngoại không thể, Hách Thất không thể, và sư phụ cũng thế cả thôi.
Trời ập tối lúc chúng tôi đã rút lên núi Thiên Hằng, đạo quân kia không tiện lên núi, chỉ dừng lại dưới chân. Từ sau núi đá nhìn xuống, chân núi đã đốt lốm đốm lửa trại, gần đó, đạo quân tiếp viện từ doanh trại kéo đến liên tục, chúng đốt đuốc nối đuối nhau tạo thành thân rồng lửa đổ ngoằn ngoèo. Cuối cùng tôi vẫn hỏi sư phụ: "Cố Tiểu Ngũ là ai?"
"Hắn vốn không mang họ Cố." giọng thầy đượm sự yên ả như thường lệ, "Hắn là Lí Thừa Ngân, là người con thứ năm của hoàng đế Trung Nguyên, mà hiện nay cũng là Đông Cung Thái Tử đương triều." Tôi chỉ ngờ ngợ việc Cố Tiểu Ngũ hẳn không chỉ là tiểu thương buôn chè, sự việc xảy ra xong, tôi vẫn lờ mờ đoán có lẽ hắn là tướng quân triều đình Trung Nguyên, nhưng có điều hắn còn trẻ quá. Tướng quân nức tiếng Trung Nguyên không nhiều lắm, mà chẳng nghe nói có vị tướng quân nào mang họ Cố. Thì ra vốn dĩ hắn không phải họ Cố, chẳng những thế, mà thân phận còn lừng lẫy thế này đây.
Tôi chẳng rõ mình đang muốn khóc hay muốn cười nữa.
Tôi nhớ lại chuyện Trung Nguyên phái sứ thần tới, lúc đó sứ thần thay mặt Thái Tử Trung Nguyên đến cầu thân. Vì đâu đến nông nỗi này? Trước kia tuy tôi không mấy thiện cảm với Trung Nguyên thật, song cũng chẳng bằng được như bây giờ, bây giờ, tôi căm thù Trung Nguyên đến tận xương tủy.
"Sao hắn lại nói mình họ Cố?" Thầy trù trừ một lúc, tôi còn chẳng ngờ nổi thầy cũng biết trù trừ cơ đấy, thế mà sau đó, thầy nói cho tôi nghe sự thực: "Bởi vì mẹ hắn mang họ Cố." Tôi nhìn sư phụ, thực ra, trong bóng tối đen kịt, chẳng thấy được gì, giọng thầy trầm mà đều: "Đúng vậy, từ lâu nàng đã biết ta cũng họ Cố, mẫu thân hắn là Thục Phi, còn là cô ruột của ta. Thế nên thực chất, ta cũng chẳng phải người tốt, bệ hạ phái hắn đến biên cương Tây Vực, hắn lại sai ta âm thầm trà trộn vào Tây Lương giúp hắn làm nội ứng..."
Đầu óc rối tinh rối mù, ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng cố nhớ ra được cái tên của thầy, tôi bình tĩnh gọi hẳn ra thành tiếng: "Cố Kiếm!" đoạn mới hỏi, "Vậy, thầy định bao giờ thì giết ta, hoặc bao giờ mới giao ta lại cho Thái Tử điện hạ đây?"
Cố Kiếm không đáp lời, lẩn khuất giữa đêm đen mà tôi vẫn thoáng thấy khóe môi thầy nhích cười đượm buồn. Thời gian trôi đi bao lâu, thầy mới bảo: "Nàng thừa biết ta sẽ không làm vậy."
Sự thù hận trong lòng phừng phực bùng cháy chẳng khác nào ngọn lửa, ngọn lửa ấy nuốt chửng trái tim tôi, tôi siết chặt nắm đá dăm, những cạnh sắc nhọn của đám vụn vỡ không ngần ngại cắm sâu vào lòng bàn tay. Tôi nghe giọng mình ai oán: "Lũ Trung Nguyên các người, còn gì mà không dám làm? Các người lừa lọc ta bấy lâu nay! Cố Tiểu Ngũ lừa ta, chính ngươi cũng lừa ta hết lần này đến lần khác! Hẳn các người tính kế này ngay từ đầu lúc quen biết rồi phải không? Lũ các người còn gì không làm nổi nữa đâu! Ngươi lừa ta từ đầu chí cuối, uổng công Phụ vương ta tin tưởng ngươi! Uổng công ta tôn ngươi làm thầy..."
Tôi chẳng còn biết mình đang nói gì, tôi chửi bới ra rả, tôi chửi toàn Trung Nguyên rặt 1 lũ bịp bợm. Thế mà thực ra, trong lòng tôi hiểu rằng, tôi chỉ hận có mình Cố Tiểu Ngũ, sao hắn lại đối xử với tôi thế này. Chưa bao giờ tôi thấy mình căm ghét mãnh liệt đến vậy, chẳng thà Cố Tiểu Ngũ cứ giết quách tôi đi, chẳng đành thầy đừng cứu tôi, biết đâu tôi đã sớm chết... Tôi chửi chán, chửi đến mệt lử. Tôi nhìn Cố Kiểm, mỉa mai bảo: "Lần này thầy cứu ta, thầy định lạt gì buộc gì chăng... rồi mai sau vừa hay đến gặp Hoàng đế Trung Nguyên lĩnh thưởng?"
Thầy nhìn tôi, bẵng đi một lúc rất lâu, thầy mới lên tiếng: "Tiểu Phong, đúng là khi quen biết nàng ta rắp tâm, trước kia ta luôn lừa nàng, thế nhưng... thế nhưng lần nào lừa nàng cũng khiến ta thấy buồn khôn cùng. Nàng vẫn chỉ là một đứa trẻ, bất kể ta nói thế nào, nàng cũng tin, ta càng lừa nàng, trong lòng ta càng thêm áy náy. Khi gửi bồ câu đưa thư cho Lí Thừa Ngân, thực chất lúc ấy, ta mong mỏi hắn mãi mãi đừng đến... Nàng ngồi đợi trên cồn cát, thực ra ta đứng cách nàng không xa, ta đứng đó đợi cùng nàng, đợi mãi đợi đứt ba ngày ba đêm...trăng ngày ấy đổ tràn xuống khuôn mặt nàng, ta trông sắc mặt nàng lúc đó hệt như lúc nàng hát bài con cáo nhỏ..." Giọng hắn thấp dần, "Ta biết bản thân mình mê muội...rõ ràng nàng chỉ là một đứa trẻ... thế nhưng khi đấy, thật tình ta chỉ mong Lí Thừa Ngân vĩnh viễn đừng xuất hiện, cứ thế, nói không chừng ta đã mang nàng bỏ trốn...Dẫn nàng đến một nơi nào đó, rời xa Tây Lương... Thế mà sau đó hắn lại đến, tất cả đều hành động theo kế hoạch đã vạch trước, ta buộc lòng phải tạm né tránh nàng... ta không biết nữa... vốn dĩ ta vẫn ôm một phần nhỏ hy vọng, chỉ cầu rằng nàng chưa chắc sẽ thích hắn... thế nhưng... lúc Lí Thừa Ngân sắp đi giết vua sói, ta đã hiểu, sự tình không còn đường lui nữa rồi. Chính ta đã giúp hắn giết con sói dữ kia, sói cắn đùi hắn bị thương, ta đã nói: điện hạ, hà cớ gì phải vậy? Thực chất trong lòng ta khinh bỉ chính mình hơn bao giờ hết, ta làm tất cả chuyện này, hà cớ gì...Ta biết hắn giết vua sói hòng đi gặp nàng. Ta giúp hắn, chính ta đã đẩy nàng vào lòng hắn..."
Tôi không còn hiểu nổi những gì thầy nói, sắc mặt thầy lộ rõ vẻ thê thảm, sau cùng chỉ bảo: "Tiểu Phong, ta có lỗi với nàng."
Tôi nín lặng, trên đời này không một ai có lỗi với tôi cả, mà chỉ riêng mình tôi có lỗi với tất cả.
Tôi có lỗi với ông ngoại, tôi cõng rắn cắn gà nhà, vì tôi mà ông tin tưởng Cố Tiểu Ngũ, dẫn tới toàn quân bại trận.
Tôi có lỗi với Hách Thất, nếu như không vì tôi, huynh ấy đã chẳng bỏ mạng.
Tôi có lỗi với A Độ, nếu như không vì tôi, nàng ấy đã chẳng bị tổn thương.
Tôi có lỗi với toàn thể nhân dân Đột Quyết, tất cả đều là người thân của tôi, chính tôi đã đẩy họ vào đường cùng diệt vong.
Trên đời này, chẳng một ai có lỗi với tôi cả, trừ Cố Tiểu Ngũ... Nhưng không sao, rồi mình sẽ giết hắn, thế nào mình cũng lựa thời cơ giết bằng được hắn... Tôi ngước nhìn sao trời, xin được thề với thánh thần rằng, rồi sẽ có ngày tôi giết hắn.
Trời tảng sáng tôi đã chợp mắt được một chập, tiếng trống hạt dưới chân núi khiến tôi bừng tỉnh, tôi mở mắt thấy A Độ bật dậy. Mà sắc mặt Cố Kiếm nặng trĩu, đoạn bảo A Độ: "Dẫn Công Chúa đi."
"Ta không đi." Tôi ngang ngược nói, "Chết thì cả 3 cùng chết."
"Ta phải đánh lạc hướng địch, A Độ sẽ đưa nàng đi." Cố Kiếm tuốt kiếm, giọng bình tĩnh bảo, "Bản tính Lí Thừa Ngân rất cứng rắn, lẽ nào nàng vẫn mong đợi hắn thực lòng với nàng ư? Nếu nàng rơi vào tay hắn, chẳng qua càng tạo vốn liếng cho công cuộc bình định Tây Lương của hắn."
Tây Lương!
Tôi chỉ thiếu điều nhảy dựng lên, Cố Kiếm nhìn tôi trong khi tôi hoàn toàn líu lưỡi: "Hắn còn định tấn công Tây Lương sao?" Cố Kiếm bật cười: "Đối với bậc đế vương mà nói, thiên hạ này biết thưở nào mới có tận cùng?" Tôi không thốt nổi lời nào, tiếng trống hạt thình thình thình gióng quá 3 hồi, quân Trung Nguyên dưới núi đã bắt đầu xung phong.
Cố Kiểm bảo: "Đi mau!"
Tuy A Độ bị trầy trụa, song thân thủ vẫn khá linh hoạt, nàng ấy kéo tôi leo lên núi đá, tôi vội vàng ngoái lại, chỉ kịp thấy Cố Kiếm đứng trên mỏm đá, nắng sớm mai phủ chụp thân mình, bộ bào trắng đương vận đã vấy máu đào, trải qua cả 1 đêm, máu se màu nâu đen. Gió thốc tay áo, thầy đứng trong nắng sớm như một pho tượng tay lăm lăm trường kiếm. Tôi nghĩ đến những gì thầy nói đêm qua, tưởng chừng hệt một cơn mộng mị. Rồi tôi chợt nhớ dạo đầu khi chúng tôi vừa quen biết nhau, lúc ấy thầy cứu một đứa bé trước vó ngựa lồng, áo trắng của thầy ngã lăn trên đất, bụi vàng nhuộm màu áo, thế mà lúc ấy thầy vẫn oai phong lẫm liệt như thể đủ tài chống đỡ thảy những sự trời long đất lở trên đời này. Chuyện lúc đó cũng hệt một giấc mơ. Mọi việc đã xảy ra trong những ngày gần đây, đối với tôi mà nói, tất cả như một cơn ác mộng.
Tôi và A Độ trốn trong núi, ban ngày thì ẩn náu, ban đêm tiếp tục chạy. Quân Trung Nguyên sục sạo khắp nơi, nhưng chúng tôi lanh lẹ lẩn tránh, tạm thời chúng không thể bắt được. Tôi và A Độ náu trên núi nhiều ngày, khát thì vét tuyết làm nước uống, đói thì đào hốc chuột, trong đó lúc nào cũng dự trữ đủ hạt và quả khô, ăn đỡ xót ruột. Chẳng hay Cố Kiếm còn sống hay đã chết, mà cũng không biết mình lẩn trên núi được bao ngày rồi.
Trời đã vào tháng 8, tuyết bắt đầu rơi. Dường như chỉ trong 1 đêm mà tuyết bao bọc cả núi Thiên Hằng, băng tuyết xuất hiện khắp nơi, bôi màu cỏ vàng xanh héo úa thành trắng xóa. Tuyết rơi, ngọn núi này không còn là chỗ thích hợp để trú ẩn, thậm chí loài linh dương đã không còn ra ngoài kiếm ăn nữa. Gió đêm trên núi thổi đến độ khiến con người ta hoàn toàn có thể chết cóng. Trước đợt tuyết rơi, đoán chừng toán quân Trung Nguyên sẽ rút hẳn, sở dĩ quân đồn trú dưới tuyết lâu, sa vào tình cảnh cạn kiệt lương thực đường nhiên là chuyện vô cùng đáng sợ, kẻ tướng quân đứng đầu không thể không cân nhắc. Tôi và A Độ náu trên núi thêm 2 ngày, không thấy có dấu vết lùng sục nữa, mới quyết định liều xuống núi xem.
Mà số chúng tôi cũng may, xuống núi xong đi cả 1 ngày đường về phía Nam, lại gặp được dân du mục. Ông ta đun chảy nước tuyết cho chúng tôi rửa mặt mũi chân tay, còn luộc thịt dê mời chúng tôi ăn. Nom tôi và A Độ nhếch nhác như 2 kẻ người rừng, ẩn mình trên núi lâu ngày, mãi chưa được 1 bữa no nê, tuyết trên núi càng khó đun. Ngồi trong lều ấm cúng uống sữa dê, tôi và A Độ nom y hệt người vừa trở về từ địa ngục. Tuy người đàn ông du mục này là dân Nguyệt Thị, song đồng cảm lắm với tình cảnh của Đột Quyết, ông ta tưởng chúng tôi là nữ tù nhân vừa trốn khỏi Đột Quyết, thế nên đối đãi với chúng tôi rất tốt. Ông ta bảo đại quân Trung Nguyên đã rút về phía Nam rồi, có mấy ngàn người Đột Quyết cũng tháo chạy cả về đằng Tây.
Tôi không còn nghĩ được gì nhiều nhặn, sữa nóng đun chảy mọi ý định trả thù, tôi biết, nếu chỉ dựa vào có tôi và A Độ e chẳng cách nào chống cự nổi bọn người Trung Nguyên, chứ đừng nói đến chuyện báo thù cho ông ngoại. Tôi quyết định dẫn A Độ về Tây Lương, tôi nhớ phụ vương lắm, tôi càng nhớ mẹ hơn. Tôi vội nghĩ phải về được Vương Thành, rồi kể cho Phụ vương nghe toàn bộ chuyện ở Đột Quyết, bảo người dù sao cũng phải cẩn thận đề phòng bè lũ Trung Nguyên. Ông ngoại mất rồi, mẹ hẳn sẽ đau lòng lắm, tôi chỉ muốn được gặp mẹ ngay bây giờ, rồi an ủi mẹ. Đành rằng ông ngoại không còn trên đời này nữa, song mẹ vẫn còn có tôi bên mình mà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét