"Đúng lúc này, cô nương kia hạ sinh cho quốc vương 1 vị hoàng tử, hoàng hậu sai người hạ độc mãn tính vào thuốc tẩm bổ. Nàng ấy uống bát thuốc trộn lẫn thuốc độc, người ngày một yếu, sau ngã bệnh qua đời, trước lúc chết, nàng hy vọng có thể công khai nguyên nhân cái chết của vị công tử nọ cho toàn thiên hạ biết, thế nhưng không còn kịp nữa rồi. Hoàng hậu bảo nàng ấy bị bệnh lao rồi sai người giam lỏng nàng ấy, cấm kị người khác đến thăm, và còn ẵm mất tiểu hoàng tử mới chào đời..."
Tôi hồi hộp lắm, hỏi: "Hoàng hậu còn muốn giết cả hoàng tử bé ư?"
Sắc mặt Cố Tiểu Ngũ vẫn vậy, hắn lắc đầu: "Hoàng hậu không giết hoàng tử bé, bản thân hoàng hậu không có con, bà ta nuôi hoàng tử trưởng thành, dạy dỗ hoàng tử, vậy là hoàng tử bé xem Hoàng hậu như mẹ ruột mình, thế nhưng hoàng tử bé không hề hay biết, mẹ ruột mình thì ra đã bị Hoàng hậu hại chết. Sau này... hoàng tử bé cuối cùng đã rõ chân tướng sự việc, thế nhưng chàng ta không có cách, tuổi chàng ta còn nhỏ, Hoàng hậu lại có thế lực trong tay, hoàng tử bé không đấu được bà ta. Lúc này, Quốc vương cũng phân vân, bởi lẽ ông ấy không chỉ có hoàng tử bé là con trai duy nhất, mà còn rất nhiều những hoàng tử khác nữa. Quốc vương do dự trước những đứa con trai của mình, không rõ nên truyền ngôi cho ai là thích hợp nhất. Thực ra những đứa con trai của ông đang nóng lòng muốn giở trò sau lưng, bọn họ thừa biết hoàng tử bé không phải do Hoàng hậu thân sinh, mà Hoàng hậu đối với hoàng tử bé lúc nào cũng tiềm tàng một nỗi lo lắng... Thế nhưng sau cùng, Quốc vương vẫn lập hoàng tử bé lên làm Thái tử. Ở vương quốc ảo, chẳng mấy vị Thái tử thọ quá tuổi 30, bọn họ không bị ám sát, thì cũng bị vua cha phế truất, rồi bị giam cầm cho đến chết. Có Thái tử nuôi dã tâm toan soán ngôi, thẳng tay mưu sát giết hại vua cha... có người thành công, song cũng có kẻ thất bại, người thắng lợi lên làm vua, sau cũng chết, kẻ bại trận không giành được ngôi báu, tất phải chết... Đông Cung ư, chốn cung đình ấy thực chất là 1 nơi đẫm máu."
Cố Tiểu Ngũ nói đến đó, đột nhiên ngơ ngác ngẩn cả người, tôi cũng chưng hửng nhìn hắn, câu chuyện này chẳng hay ho gì cả, chẳng được như đoạn đầu đã kể. Thế mà chẳng hiểu vì sao, tôi không ngắt lời Cố Tiểu Ngũ, qua chốc láy, hắn lại kể tiếp câu chuyện bằng chất giọng bình thường như không có gì: "Mặc dù được làm Thái tử, song cuộc sống của Hoàng tử bé cũng chẳng tốt hơn là bao, Hoàng hậu đề phòng chàng; còn Quốc vương, ông ta giao cho Hoàng tử bé một vấn đề vô cùng nan giải. Quốc vương nói, con đã là Thái tử, con nên làm tấm gương sáng cho thần dân trong thiên hạ noi theo. Quốc vương phái Hoàng tử bé đến 1 nơi, bảo chàng đi làm một chuyện chừng như không cách nào giải quyết được..."
"Hoàng tử bé thật đáng thương." Tôi hỏi hắn, "Quốc vương rút cuộc muốn chàng ấy làm chuyện gì?"
"Chuyện hết rồi." Cố Tiểu Ngũ vỗ vỗ yên ngựa, lại buông mình nằm xuống, mặt mày dãn nở khoan khoái, "Ngủ thôi."
Tôi nổi giận, kể chuyện chẳng đầu chẳng đuôi gì, bảo tôi ngủ thế nào được? Tôi nói: "Ta có hỏi tại sao đâu, sao chàng không kể nữa?"
Cố Tiểu Ngũ bảo: "Thì hết chuyện rồi chứ sao nữa, hết rồi thì còn gì để kể?"
Hắn xoay người quay lưng lại với tôi. Tôi chỉ còn nhìn thấy xương bả vai hắn, tuy phủ một lớp da dê, song tiết đêm gió lạnh, vai hắn co ro, dường như đã ngủ thật rồi.
Tôi kéo chăn da phủ đến cằm, nằm trong ấm áp, bụng nghĩ: gã Cố Tiểu Ngũ nom thế mà vô tâm, kể xong chuyện càng làm người ta thêm phát ghét. Nhưng cứ trông cái bộ dạng hắn ngủ, thật ra lại có nét đáng thương—hoàng tử bé trong câu chuyện hắn kể không có mẹ, mà hắn mồ côi mẹ từ dạo bé, những người không có mẹ đương nhiên rất tội nghiệp. Mới chớm nghĩ đến việc nếu như mẹ mình cũng qua đời, quả thực tôi chỉ chực rơi nước mắt.
Chắc tại nghe câu chuyện kia lúc sắp ngủ, nên vừa miên man đưa giấc, hoàng tử bé nọ theo tôi cả vào trong mơ. Cậu ta còn rất nhỏ, nhỏ lắm, nom dáng vẻ chắc chỉ trạc tầm 3-4, cậu bé rụt vai như một con thú nhỏ bị thương, chơ vơ ngồi khóc hu hu. Nhớ có lần tuyết vừa rơi, tôi trông trong hố săn có con cáo nhỏ bị thương. Con cáo ấy nom cũng co quắp thế này, nó chỉ hếch đôi mắt đen láy hoen nước nhìn tôi, đôi mắt ấy đầy cảnh giác, thế mà ánh nhìn lại thấp thoáng nét rụt rè. Bờ vai nó co ro, thoắt cái mà chiếc mõm nhòn nhòn đã vùi dưới chân, tuyết rả rích tuôn, chứng kiến cảnh ấy, trong tôi lại dâng trào niềm thương cảm, không cấm được cánh tay giơ ra, toan kéo cậu bé. Ngờ đâu nó vừa ngước đầu, tôi lại trông thành ra Cố Tiểu Ngũ, tôi giật thót mình, trong lòng cứ thấy quái đản, thế rồi tức khắc choàng tỉnh. Lúc ấy trời gần về sáng, trăng chếch đằng chân trời, cảnh sao leo lét, lửa trại lụi dần, dường như sắc đêm thêm thẫm màu. Hai ngàn kỵ binh trên thảo nguyên vẫn đương say giấc nồng, chỉ có lính tuần tra là còn đi đi lại lại. Cỏ bên mình, sương mai đọng dày mát rượi, giọt sương nhỏ xuống mặt, thế là tôi lè lưỡi liếm luôn, có vị ngòn ngọt đây. Tôi trở mình, ngủ thêm chút nữa.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi đã nhổ trại khởi hành lên đường tiến thẳng về hướng đông suốt 5-6 ngày liền, cho đến khi gặp đội kỵ binh của Đột Quyết được phái đi, Hách Thất nghe nói lều chúa của Đại Thiền Vu đang ở gần đó, tức thì mừng lắm. Trong lòng tôi cũng vui nữa là, thì chẳng mấy nữa sẽ được gặp ông ngoại rồi. Có điều hai ngàn quân Trung Nguyên hộ tống chúng tôi về, lại không thể dừng chân trên lãnh thổ Đột Quyết, họ lập tức cáo từ trở về.
Hách Thất rất kính nể đạo quân ấy của Trung Nguyên, khen họ có quân kỷ nghiêm minh, hành động lại nhanh nhẹn, lúc lâm trận cũng rất dũng mãnh, thảy là những hảo hán hiếm thấy. Hách Thất tiễn bọn họ một đoạn xa, tôi đi theo Hách Thất, tiễn họ về đằng tây. Ráng chiều chói lọi, Cố Tiểu Ngũ cúp mi, cúi đầu, nom uể oải như đang ngủ gật, tôi bảo: "Này, chàng về rồi truyền lời cho Phụ vương ta hay, cứ bảo ta đã bình an đến Đột Quyết rồi nhé."
Cố Tiểu Ngũ nói: "Thì cũng phải xem ta có về đằng Vương thành buôn chè không đã chứ."
Tôi bảo: "Chàng không về bán chè đi, còn định đi đâu nữa?"
Hắn cười, song không hề đáp lời tôi. Lúc ấy đội quân Trung Nguyên đã đi được 1 quãng xa, hắn vẫy tay với tôi rồi rong ngựa đuổi theo.
Tôi lấy tay che trán, thảo nguyên bát ngát trải dài đến tận đường chân trời, một lúc lâu còn trông rõ hắn đã bắt kịp đoàn người, mà vẫn vẫy tay với chúng tôi. Dần dà đã xa tít tắp thật rồi, lúc ấy trông chỉ như làn cỏ rác nhỏ bé cuồn cuộn giữa đất trời, chẳng còn nhận ra nữa. Tôi dõi theo bóng lưng hắn, chợt nhớ lại câu chuyện mới kể ngày hôm qua, thấy buồn rười rượi như thể mất đi thứ gì.
Sau lưng bỗng có người khì cười, tôi ngoảnh đầu, thì ra Hách Thất. Huynh ấy ghì ngựa đứng ngay sau, tôi thẹn quá hóa giận liền hỏi: "Huynh cười gì thế?"
Hách Thất gật đầu, rồi lại lắc lắc, song vẫn cười bảo tôi: "Tiểu công chúa ơi, chúng ta mau về thôi."
Lúc gặp ông ngoại tôi vui lắm, bao nhiêu phiền não đều quên sạch sành sanh. Cả năm ròng chưa gặp, ông ngoại càng thêm phần cưng chiều, kệ tôi buông thả càn quấy. Cánh tay của Hách Thất bị thương, ông ngoại lo tôi gặp chuyện, liền sai em gái Hách Thất ngày ngày theo sau tôi. Em gái Hách Thất trạc tuổi tôi, từ nhỏ đã học võ nghệ, tài cầm đao vô cùng cao siêu. Tôi thích gọi tên nàng ấy nhất: "A Độ ơi! A Độ!" nghe giống như một chú chim non, cô ấy thật y hệt một chú chim non, bất kể tôi đang ở nơi nao, chỉ cần hô 1 tiếng, cô bé lập tức xuất hiện ngay trước mặt tôi, chẳng khác nào chim nhỏ xòe đôi cánh lẹ làng lanh lẹ.
Điều khiến tôi khó ngờ nhất là, vua Nguyệt Thị lại sai sứ giả sang, ngỏ lời muốn ông ngoại tôi định đoạt chuyện hôn nhân. Ông ngoại vốn không vời sứ giả vào lều, chỉ phái người chuyển lời với sứ thần vua Nguyệt Thị rằng: "Tuy tiểu công chúa không phải công chúa của Đột Quyết chúng tôi, song mẫu thân người là con gái Đại Thiền Vu. Tiểu công chúa chính là cháu gái người, Đại Thiền Vu chỉ hy vọng gả được công chúa cho bậc anh hùng đương thời. Vua đằng Nguyệt Thị nếu như có lòng muốn lấy tiểu công chúa, vậy mời đức vua thân chinh tới trước cửa lều, cạnh tranh cùng dũng sĩ Đột Quyết chúng tôi, chỉ cần ngài bắt được vua sói mắt trắng, Đại Thiền Vu tức thì gả tiểu công chúa cho đức ngài. Đây là chỉ dụ của Đại Thiền Vu, mà phụ thân tiểu công chúa tức quốc vương Tây Lương cũng bằng lòng với sự sắp xếp của Đại Thiền Vu."
Sứ thần Nguyệt Thị vấp phải vố này, liền hậm hực bỏ về.
Chỉ dụ của Thiết Nhĩ Cách Đạt Đại Thiền Vu chẳng mấy mà truyền khắp chốn thảo nguyên, ai ai cũng hay nếu muốn lấy tiểu công chúa Tây Lương, tất phải giết bằng được vua sói mắt trắng. Nghe truyền bầy sói trên núi Thiên Hằng có hàng ngàn hàng vạn, mà chúng chỉ tôn độc nhất 1 con sói mắt trắng làm sói đầu đàn. Bầy sói ấy cũng như con người, chúng chỉ khuất phục dưới chân bậc vua chúa mạnh nhất. Con sói chúa ấy toàn thân lông đen xì, riêng mắt trái có một quầng lông trắng xóa như nhúng sữa ngựa vẽ lên. Lại nghe nói loại sói ấy rất dữ tợn, gần như đã thành tinh. Bầy sói trên thảo nguyên đương nhiên rất đáng sợ, song vua sói mắt trắng còn đáng sợ hơn. Những tốp nhỏ kị binh hoặc dân du mục mà gặp phải vua sói tất mất mạng, nó thường dẫn đầu một bầy phải đến hàng vạn con sói tấn công loài người, vậy là cả người lẫn ngựa đều bị ăn sạch sành sanh. Có một dạo tôi cứ ngỡ vua sói mắt trắng chỉ là truyền thuyết thôi, chính mẹ kể cho tôi nghe mà, chứ xưa nay chưa một ai tận mắt thấy nó, thế mà ai ai cũng thề thốt nói vua sói quả thực có trên núi Thiên Hằng, nó thống lĩnh bầy đàn phải đến mấy vạn con sói.
Vua Nguyệt Thị bị Đại Thiền Vu nói khích thế, nghe đâu đã đích thân dẫn người lên núi Thiên Hằng, tìm giết vua sói mắt trắng. Nếu mà lão giết được nó thật thì sao? Tôi không muốn lấy lão già ấy đâu. Nhưng làm gì có ai giết được vua sói mắt trắng, thế nên người Đột Quyết đều nghĩ vậy, mà thảy những ai trên thảo nguyên đều bụng bảo dạ thế. Đành rằng Vua Nguyệt Thị hùng hổ dẫn người lên núi, song cũng chẳng gặp được vua sói, thì cũng bởi làm gì có ai thật sự thấy con sói ấy đâu, nó chỉ tồn tại trong truyền thuyết thôi. Tôi cứ ngẫm vậy rồi tự thấy an ủi, Vua Nguyệt Thị tuổi già sức yếu, núi Thiên Hằng rộng mấy trăm dặm, lại lắm loại thú dữ, nói không chừng lão lại ngã ngựa cũng nên, ngã quả ấy thì hết nhúc nhích, tôi đỡ phải lấy lão.
Chuỗi ngày ở Đột Quyết tôi ung dung tự tại mà vui vẻ hơn hẳn ở Tây Lương, ngày ngày có A Độ ở bên, chúng tôi không đi săn thì cũng đi bẫy chim. Con gái Đột Quyết thường lấy chồng sớm, A Độ lại đương tuổi cập kê. Thỉnh thoảng có người đứng ngoài lều nàng ấy hát trọn 1 đêm, ồm ào làm tôi khó ngủ. Thế mà chẳng một ai đến hát chỗ tôi, tôi tự nhủ đám người ấy hẳn biết muốn lấy được tôi đồng nghĩa với việc phải giết được vua sói. Đối với dũng sĩ trên thảo nguyên mà nói, âu cũng là 1 vấn đề rất nan giải.
Chứ không phải vì tôi không đẹp, nên chẳng ma nào đến hát tỏ tình đâu nhé.
Hôm ấy tôi đang ngủ trong lều, đột nhiên thấy bên ngoài ồn ào hẳn, dường như có tiếng xôn xao. Tôi trở mình bật dậy, lớn tiếng gọi "A Độ", nàng ấy vội vàng vén cửa lều bước vào, tôi hỏi: "Sao thế? Xảy ra gì rồi?"
Mặt A Độ cũng tỏ vẻ mù tịt, tôi nhớ nàng ấy cũng như tôi cả, có biết chuyện gì đâu. Lúc ấy người ông ngoại sai đến khom lưng vái chào chúng tôi: "Đại Thiền Vu truyền tiểu công chúa đến lều trước."
"Sắp đánh nhau à?" Tôi có phần thấp thỏm không yên, đoạn hỏi, lần trước sứ giả Nguyệt Thị mặt xám ngắt trở về, mà với cái tính lão vua Nguyệt Thị kia, khó mà lão chịu để yên. Vua Nguyệt Thị bị khích đi tìm vua sói mắt trắng, song có ai tìm được vua sói đâu? Đây rõ là ý của Đại Thiền Vu – ông ngoại vốn thương tôi nhất nên mới bẫy vua Nguyệt Thị mà. Nếu như vua Nguyệt Thị giận quá hóa thẹn, chợt ngộ ra, nói không chừng còn đánh nhau với Đột Quyết, quả này Nguyệt Thị động binh với Đột Quyết, đối với toàn thể Tây Vực mà nói, thật sự chẳng phải chuyện đùa. Tuy Đột Quyết là cường quốc mạnh nhất Tây Vực, là nước có thế lực chiếm giữ phía bắc sa mạc, lãnh thổ trải dài đến tận ven biển cực đông, song Nguyệt Thị cũng là nước lớn nhất nhì Tây Vực, dẫu cường thịnh không bằng Đột Quyết, nhưng thực lực quả thực không phải loại yếu. Huống hồ Tây Vực mười mấy năm ngắn ngủi nay sống trong bình lặng, con đường thương mại thông suốt, thành thị ngày một sầm uất, cũng như Tây Lương chúng tôi, nếu như không có con đường thông thương, ắt chẳng được phồn vinh như ngày nay. Nếu xảy ra đánh nhau, không chừng tất thảy khó mà tái tạo lại được.
Ba chân bốn cẳng tôi kéo A Độ chạy sang lều chúa, trướng lớn của Đại Thiền Vu hay còn gọi là lều chúa, lều phủ bởi vô vàn lớp da bò, bề mặt thêu chi chít hoa văn gam màu tươi tắn, bức hoành trắng muốt trưng trước cửa đề mấy chữ cầu may dát bằng bụi vàng, dưới nắng đầu thu, nét chữ lấp lánh ánh vàng khiến hầu như chẳng mấy ai dám ngước nhìn. Đôi câu chữ đổ thẳng bóng xuống nền đất chói chang, như thỉnh cầu chư thần trên trời phù hộ. Giữa khoảng ánh kim sáng lóa ấy, tôi nheo mắt trông trước lều có bóng dáng ai, vừa như quen thuộc gần gũi vừa như xa lạ bỡ ngỡ, tuy hắn vận trên người một bộ áo phổ biến của dân Tây Lương, song kẻ ấy chẳng giống người Tây Lương chúng tôi chút nào. Hắn ngoảnh đầu cười với tôi, quả nhiên không phải người Tây Lương, mà lại là dân Trung Nguyên.
Chính cái gã thương nhân buôn chè, Cố Tiểu Ngũ nọ.
Tôi không nhịn được cất tiếng hỏi: "Chàng đến làm gì thế?"
"Cưới nàng."
Tôi ngẩn người nhìn hắn, qua một lúc lâu lắm mới cười bảo: "Này, chàng lại đến đây buôn chè đấy à?"
Cố Tiểu Ngũ không trả lời, mà hắn chậm rãi giơ mũi chân hẩy cái thứ dưới đất.
Tôi trông nó mà hoảng đến độ suýt rơi cả cằm.
Một con sói toàn thân lông đen xì, kích thước xem chừng gấp đôi bọn sói hoang bình thường, trông nó to phải cỡ 1 con ngựa non, dù xác đã cứng đờ, song con ngươi vẫn trợn trừng, như thể muốn nhảy bổ vào ai đó mà cắn mà nuốt. Duy nhất có một chòm lông bao quanh mắt trái, trắng muốt như vẽ bởi sữa ngựa. Tôi dụi mắt, sững sờ phải mất 1 lúc, thế rồi lại khụy xuống, nhổ một sợi lông chỗ mắt trái con sói, sợi lông ấy từ đầu đến ngọn đều trắng bóc, khẳng định không phải lấy màu bôi lên, mà đích thực lông vốn màu trắng.
Tầng lớp quý tộc Đột Quyết đã tụ tập đông đủ trước lều chúa, bọn họ lặng lẽ nhìn xác con sói to đến khác thường này, có đứa nhỏ mạnh dạn tiến lên, nó bắt chước tôi cũng nhổ một sợi lông trên mắt con sói, nó soi dưới ánh mặt trời, đoạn gào lên: "Màu trắng! Màu trắng này!"
Giọng thằng bé the thé làm bụng dạ tôi bồn chồn bất an, tiếng ông ngoại xuyên qua đám người vọng thẳng đến: "Bất kể có là người Đột Quyết chúng ta không, tất đều là dũng sĩ." Mọi người nhao nhao nhường đường cho Đại Thiền Vu, ông ngoại thong thả bước tới, ông đảo mắt trông xác con sói, đoạn gật đầu, xong mới quay sang Cố Tiểu Ngũ gật đầu và bảo: "Tốt lắm!"
Được Đại Thiền Vu khen một câu, dễ chừng còn khó hơn bảo tuyết trên đỉnh Thiên Hằng kia tan chảy. Có điều Cố Tiểu Ngũ đã giết được vua sói mắt trắng rồi, trong khi Đại Thiền Vu chính miệng tuyên bố, ai giết được vua sói, sẽ ban gả tôi cho người ấy.
Tôi nào có nghĩ kẻ ấy sẽ là Cố Tiểu Ngũ đâu. Tôi theo sau hắn, không ngừng hỏi, chung quy làm sao mà hắn giết được vua sói mắt trắng kia.
Hắn chỉ nói qua loa rằng: "Ta dẫn đội buôi chè đi dọc đường, tình cờ gặp bầy sói, thế rồi đánh chết được nó thôi."
Tôi khẽ nhếch mép, tin thế quái nào được. Nghe bảo vua Nguyệt Thị dẫn 3 vạn kỵ binh lên núi Thiên Hằng, song có tìm thấy cọng lông nào của vua sói đâu, thế mà Cố Tiểu Ngũ chỉ tiện đường đi buôn, đã có thể giết được vua sói rồi à?
Đánh chết tôi cũng không tin nhé!
Có điều Đại Thiền Vu đã hứa ắt phải giữ lời, tức thì đã có vài người Đột Quyết đang bàn tán xôn xao, xem ra cái gã buôn chè người Trung Nguyên kia, thật sự sắp lấy Công Chúa Tây Lương rồi. Cố Tiểu Ngũ được xem như vị anh hùng cái thế, còn tôi vẫn cảm giác hắn rõ ràng đang lừa bịp người ta, thế mà hôm đó, Hách Thất uống say, lớn tiếng cãi nhau với hắn, hai người bọn họ so tài một phen.
Bọn họ thi thố cũng rõ chán, lúc dở giăng dở đèn lại kéo nhau ra thảo nguyên bắn dơi, ai bắn được nhiều hơn, kẻ ấy thắng.
Chỉ có những kẻ đã từng bắn dơi mới hiểu cái giống ấy khó bắn thế nào.
Dân chúng Đột Quyết đều cho rằng Hách Thất thắng là cái chắc rồi, song họ vẫn đánh cược thử xem. Bản thân tôi cũng nghĩ Hách Thất tất sẽ thắng, tuy xương cốt tay phải chưa lành hẳn, nhưng kể cả khi Hách Thất dùng tay trái thì cũng chẳng một ai ở Đột Quyết này bì được với tài bắn cung như thần của huynh ấy.
Tin tức về cuộc so tài chỉ vọn vẹn có nửa ngày trời mà đã truyền khắp nơi nơi cho người người hay biết. Người ta bảo rằng Hách Thất muốn lấy tôi, dẫu sao huynh ấy cũng là võ sĩ lợi hại nhất dưới trướng Đại Thiền Vu, sau này nói không chừng còn là tướng quân dũng mãnh nhất của Đại Thiền Vu. Mà tôi, tuy là Công Chúa Tây Lương, song ai chẳng biết Đại Thiền Vu thương tôi nhất, nếu như lấy tôi rồi, Đại Thiền Vu ắt sẽ càng tín nhiệm huynh ấy hơn.
Có điều tôi trông Hách Thất chẳng có lối nghĩ kì quái thế đâu, tôi thấy dễ chừng là A Độ kể với huynh ấy rằng tôi không chịu lấy Cố Tiểu Ngũ.
Tôi lờ mờ nhận ra rằng, Cố Tiểu Ngũ không phải loại thương buôn tầm thường. Song tôi vẫn mong, mong sao mình đừng lấy chồng sớm thế này.
Chủ tế của Đột Quyết tụng bài ca ngợi, rồi nhỏ máu dê vào bát rượu, đoạn đưa bát rượu cho hai vị anh hùng sắp tranh tài, bọn họ nốc một hơi cạn bát rượu. Tối nay hai người bọn họ quyết phân cao thấp. Hách Thất là người có tên tuổi lẫy lừng khắp Đột Quyết này, mà Cố Tiểu Ngũ, nhờ chiến công giết được vua sói mắt trắng nên nhiều người Đột Quyết xem hắn như anh hùng, hai người họ thi thố phen này khiến người người rục rịch chộn rộn. Mà chính bụng dạ tôi cũng bối rối lắm, chẳng rõ mình mong kết quả nghiêng về phe nào nữa.
Nếu Cố Tiểu Ngũ thắng, chẳng nhẽ mình thật sự phải lấy hắn ư?
Còn ví như Hách Thất thắng thì sao? Lẽ nào gả tôi cho Hách Thất chăng?
Tôi bị cái suy nghĩ ấy dọa cho hết hồn, Hách Thất chỉ thay mặt tôi răn đe Cố Tiểu Ngũ, bảo hắn bỏ ngay cái lối kiêu căng ngạo mạn ấy đi mà thôi, cũng giống như có dạo Hách Thất dạy dỗ mấy thằng cha hay hát ngoài lều A Độ, nếu bọn chúng ầm ĩ quá, Hách Thất sẽ có cách làm lũ ấy phải nín ngay. Tôi nghĩ lần này cũng thế cả, Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói, dù cho là ai đi chăng nữa cũng cảm thấy khó mà tin được. Hắn còn tỏ vẻ chẳng hề bận tâm, ngang nhiên bảo với ông ngoại rằng, hắn muốn cưới tôi.
Thế nên Hách Thất mới nghĩ cách hòng trị thằng cha này.
Cuộc so tài ấy truyền đến tai cả Đại Thiền Vu, ông phấn chấn lắm, đích thân đi xem nữa cơ mà. Tôi vác bụng dạ thấp thỏm không yên, theo sau ông ngoại, cùng đám người chỉ thích sôi nổi ồn ào kéo nhau đổ thẳng ra bờ sông. Võ sĩ dưới trướng Đại Thiền Vu ôm tên tới, đống tên ấy chia đều xếp chồng dưới chân 2 người. Hách Thất cầm cung của mình, trông trên tay Cố Tiểu Ngũ trống không, liền bảo: "Đệ lấy cung ta mà dùng."
Cố Tiểu Ngũ gật đầu, Đại Thiền Vu cười mà rằng: "Nơi dân Đột Quyết ta đóng quân, chẳng nhẽ không tìm nổi một cây cung nào hay sao?"
Đại Thiền Vu ban cây cung sắt của mình cho Cố Tiểu Ngũ, tôi thấy lúng túng hộ hắn, cây cung sắt kia nặng hơn loại cung thường rất nhiều, nom hắn nho nhã yếu ớt thế, chỉ e khó mà giương được cung. Mà dễ Hách Thất cũng nghĩ vậy, huynh ấy không muốn bất công với Cố Tiểu Ngũ, liền bẩm với Đại Thiền Vu: "Hay là để đệ ấy dùng cung của thần, xin Đại Thiền Vu ban cây cung này cho thần dùng."
Đại Thiền Vu lắc đầu, đoạn phán: "Không giương nổi cây cung sắt này, lẽ nào còn ôm mộng lấy cháu gái ta sao?"
Đám người vây quanh ồ cười, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, thế nên bọn họ vẫn có nét khinh thường ra mặt. Cố Tiểu Ngũ nhấc cây cung, dùng ngón tay gẩy dây cung như thể đang đánh đàn. Dây cung phát tiếng boong boong, người dân đứng quanh đấy phá lên tràng cười còn to hơn ban nãy, nom hắn vốn dĩ đã trắng trẻo thư sinh, trông chẳng khác nào bọn nhạc công người Trung Nguyên mà quý tộc Đột Quyết thường mua về, giờ lại gảy giây cung, chỉ tổ khiến người Đột Quyết càng thêm phần khinh thường.
Sắc trời dần ngả tối, khoảng không ven sông chật kín dơi bay lượn. Đại Thiền Vu gật đầu, đoạn phán: "Bắt đầu đi."
Bên người Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ đã chất chồng 100 mũi tên, ai bắn được 100 con rơi trước, người ấy thắng. Hách Thất giương cung đầu tiên, tuy dùng tay trái, song trăm phát trúng cả trăm, chớp nhoáng đã thấy dơi đang bay trên trời bỗng dưng rụng lả tả. Mà phía Cố Tiểu Ngũ, hắn vẫn thong thả, rút 5 mũi tên, từ từ căng dây cung.
Tôi thốt lên "Cố Tiểu Ngũ", tuy tôi chưa rõ hắn có biết bắn cung không, song hắn cũng phải hiểu dây cung chỉ căng từng mũi một thôi chứ. Cố Tiểu Ngũ ngoảnh lại, mỉm cười với tôi, thế rồi hắn kéo cung.
Nói thực thì, tôi hoàn toàn chẳng ngờ, hắn căng cây cung một cách nhẹ nhõm. Không chỉ giương được cung, mà còn bắn 1 chập những 5 phát tên lao vút như sao băng, hồ như mũi sau nối đuôi mũi trước, mớ người quanh đấy không khỏi kinh ngạc.
"Tên liên hoàn! Tên liên hoàn kìa!" Mấy tay quý tộc Đột Quyết thốt lên trong ngạc nhiên, thậm chí, Đại Thiền Vu cũng kìm lòng không đặng mà gật đầu. Trung Nguyên có vị đại tướng sử dụng ngón sở trường là tên liên hoàn, trong trận giao tranh với Đột Quyết trước đây, ngón tên liên hoàn ấy đã hạ gục được Hữu Đồ Kỳ Vương. Có điều nói cho cùng cũng chỉ là truyền thuyết, mười mấy năm nay, quý tộc Đột Quyết chưa từng chứng kiến kiểu bắn tên liên hoàn. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại thành thục bắn liên tục mấy phát tên liên hoàn, đám dơi tuy bay nháo nhác, song không tránh khỏi loạt tên của hắn, từng con dơi đen thui lủi ngã xuống bên chân hắn, chẳng khác nào một cơn mưa rào hỗn loạn. Đành rằng tên Hách Thất bắn ra rất nhanh, song vẫn không bì được với hắn, nhoáng cái mà Cố Tiểu Ngũ đã giải quyết sạch 100 mũi tên. Đám nô lệ thu gom số dơi lại, tích thành một đống đen ngòm bên bờ sông, một trăm con dơi trông chả khác nào 100 bông hoa kỳ dị đen xì, chất lên nhau tạo thành một gò lớn màu đen.
Hách Thất cũng bắn được 100 con, nhưng so với Cố Tiểu Ngũ có phần chậm hơn. Sắc mặt Hách Thất vẫn bình lặng, đoạn bảo: "Ta thua rồi."
Cố Tiểu Ngũ nói: "Đệ dựa vào thế cung mạnh nên mới bắn được chuỗi liên hoàn vừa rồi, ví như đổi sang cung của huynh, hẳn sẽ chậm. Vả lại, tay phải của huynh vẫn chưa lành lặn, thảy đều dựa vào sức tay trái, nếu bảo trận này đệ thắng huynh, thắng thế cũng chẳng vinh quang gì. Đôi bên chúng ta không ai thua cả, huynh là dũng sĩ chân chính, nếu như tay không bị thương, đệ sao có thể đọ nổi."
Kỹ thuật bắn cung của Cố Tiểu Ngũ đã làm dao động tất cả mọi người, nom hắn nói vẻ thản nhiên, đám người không thể không rầm rầm thốt lên câu khen ngợi. Tính người Đột Quyết quen cởi mở, mọi việc đều giải quyết ngay thẳng, người như Cố Tiểu Ngũ, xem ra rất hợp với tính khí người Đột Quyết. Đại Thiền Vu cười sảng khoái: "Khá lắm, dũng sĩ Đột Quyết chúng ta cũng chẳng thua." Ông nhìn Cố Tiểu Ngũ rồi bảo: "Này người Trung Nguyên kia, nói xem, ngươi muốn được ban thưởng thứ gì?"
"Bẩm Đại Thiền Vu, ngài đã ban cho tiểu nhân thứ quý giá nhất rồi ạ." Dường như gã Cố Tiểu Ngũ này đang mỉm cười, "Trần đời này, còn gì quý báu hơn tiểu Công Chúa của ngài?"
Đại Thiền Vu phá lên cười, mà những vị quý tộc Đột Quyết kia cũng hết sức phấn khởi, xem ra vụ cưới xin này quả thực được định xong rồi.
Thầy tế chọn ngày lành tháng tốt, nhân lúc tiết thu dịu mát để cử hành hôn lễ sắp tới của đôi tôi. Bụng dạ tôi vẫn phân vân lắm, tôi len lén hỏi A Độ: "Ngươi cảm thấy, ta nên cưới gã này, hay không cưới gã thì hơn?"
Đôi mắt đen láy của A Độ nhìn tôi, mắt nàng ấy mãi mãi chỉ một vẻ trấn tĩnh bình thản. Tự tôi cũng không có chủ kiến riêng, sau cùng tôi bạo gan hẹn Cố Tiểu Ngũ ra bờ sông gặp.
Tôi cũng chẳng biết phải nói gì, thế nhưng nếu thật sự phải lấy hắn trong trạng thái mơ mơ hồ hồ thế này, dường như lại cứ có phần bất an.
Tối một ngày thu, gió lướt thoảng hơi mát lành, tôi quấn chặt áo choàng da, quanh quẩn phía bờ sông, nghe dòng nước đổ tiếng róc rách, vẳng xa có tiếng chim nhạn gọi bầy, tôi ngóc đầu nhìn quanh. Đằng tây đã nhô cao một chòm sao sáng lấp lánh, sắc trời sẫm tím, hệt một tảng thạch nho.
Gió lùa cỏ lác xào xạc, Cố Tiểu Ngũ đạp lên bụi cỏ, tiến về phía tôi.
Tôi thấy lòng mình dậy cơn hốt hoảng. Hắn mặc áo bào của Đột Quyết, nom như dân Đột Quyết, thắt lưng còn dắt một chuôi đao. Độ mấy ngày trở lại đây, hắn chiếm được cảm tình của Đại Thiền Vu, hắn không những thạo bắn tên, mà còn rành rọt tiếng Đột Quyết, mặc dù là người Trung Nguyên, nhưng Đại Thiền Vu càng lúc càng tín nhiệm hắn, còn ban cung tên bằng sắt của người cho hắn. Trong khi đó, kể từ buổi so tài nọ, dường như Hách Thất và hắn đã kết tình huynh đệ. Cố Tiểu Ngũ dạy Hách Thất tài bắn tên liên hoàn, mà Hách Thất cũng chỉ bảo cho hắn vài chuyện trên thảo nguyên. Mỗi bận gặp hai người bọn họ, Đại Thiền Vu không kìm được cái gật đầu hài lòng. Thậm chí Hách Thất còn đổi đao của mình với hắn — Người Đột Quyết đổi đao cho nhau nhằm tỏ ý kết nghĩa, lúc xông pha trận mạc, anh em kết nghĩa còn thân thiết hơn cả anh em ruột thịt, thậm chí sẵn sàng chết vì nhau. Thế nên thắt lưng Cố Tiểu Ngũ dắt thực ra chính là thanh đao của Hách Thất, tôi vừa nhìn đã nhớ ngay đến Hách Thất từng dúi nó vào tay tôi rồi giục tôi chạy trước.
Cố Tiểu Ngũ cũng trông thấy tôi, từ đằng xa đã nhoẻn miệng, tôi cũng cười đáp lại. Nom hắn cười, bỗng nhiên tôi bình tĩnh hẳn, tuy tôi không nói gì, mà hắn cũng không lên tiếng, song ắt hắn hiểu, vì sao tôi hẹn hắn ra đây. Quả nhiên, hắn bảo: "Ta mang cho nàng cái này."
Tim tôi nảy thình thịch, không phải thắt lưng đấy chứ? Ví như bây giờ hắn tặng thắt lưng của mình cho tôi, tôi phải trả lời thế nào đây? Theo phong tục của Đột Quyết và Tây Lương, người con trai hát xong mới trao thắt lưng... Hắn còn chưa hát cơ mà. Trong lòng tôi thấy thẹn thùng lắm, tim cũng đập gấp gáp, thế mà tai lại nghe hắn bảo rằng: "Buổi tối nàng ăn chưa no phải không? Ta đem cho nàng một miếng sườn dê nướng thật to đây!"
Bỗng dưng tôi tức đến nỗi không thốt nổi câu nào, phùng cả má, bẵng đi bao lâu mới nhả được 1 câu: "Có mà chàng chưa ăn no ấy!"
Cố Tiểu Ngũ tỏ vẻ mặt khó hiểu: "Đương nhiên ta ăn đủ rồi... ta thấy nàng tối nay chưa ăn gì, nên mới mang sườn dê cho nàng đấy chứ."
Tôi giận lắm đâm im lìm luôn, chỉ nghe vẳng từ đằng xa có tiếng hót một loài chim không rõ tên. Dòng nước vẫn róc rách tuôn chảy, cá dưới sông nảy tưng tưng, bắn tóe cả làn bọt nước. Miếng sườn dê thơm phức của Cố Tiểu Ngũ đặt ngay trước mặt tôi, quả thực cả tối chưa ăn gì, sở dĩ bụng dạ chỉ lo chuyện chốc nữa hẹn hắn, nên tầm tối đến, không thiết ăn. Giờ trông miếng sườn dê thơm nức mũi này, bụng tôi réo sôi ùng ục. Hắn bật cười, đoạn đưa con dao cho tôi bảo: "Ăn nào!"
Sườn dê ngon thật đấy! Tôi ăn đến nỗi mồm miệng nhoe nhoét mỡ, tôi hớn hở hỏi hắn: "Sao chàng biết ta thích ăn sườn dê?"
Cố Tiểu Ngũ buông một câu Trung Nguyên, tôi nghe chẳng hiểu, hắn nói lại với tôi bằng tiếng Đột Quyết, thì ra là: "Không có việc gì khó, chỉ sợ người không có lòng."
Lần đầu tiên tôi nghe có câu ấy, chẳng hiểu sao bụng dạ lại khẽ giật thót 1 cái, người thế nào thì được gọi là có lòng nhỉ? Tuy tôi và Cố Tiểu Ngũ quen nhau chưa lâu, thế mà tôi luôn cảm giác, mình đã biết hắn từ lâu lắm rồi kìa. Có lẽ là bởi rất nhiều chuyện từng xảy ra giữa chúng tôi, lần nào hắn cũng ra tay giúp đỡ, che chở tôi. Đành rằng hắn toàn nói mấy lời khiến tôi bực bội, song câu nói này, lại không hề làm tôi giận. Chúng tôi lẳng lặng ngồi ven sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát người Đột Quyết, ấy là một bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có người dũng sĩ Đột Quyết đứng hát ngoài lều người con mình yêu, bày tỏ nỗi lòng thầm kín của lòng mình thông qua lời ca cho người ấy nghe.
Trước kia tôi không hề nhận ra giọng hát này nghe lại bùi tai thế, nó thoắt ẩn thoắt hiện như tiên khúc. Vạt cỏ ven sông đã chập chờn bầy đom đóm, từng đốm từng đốm chợt sáng chợt tắt, chẳng khác nào sao băng, hoặc tựa như có nắm bụi vàng ai đó thuận tay vẩy xuống. Thậm chí tôi còn nghĩ, những con đom đóm phát sáng rạng rỡ ấy đích thị là sứ giả của thần tiên trên trời, họ cầm những chiếc đèn lồng nhỏ xíu, nhóm lên từng đốm sáng lấp lánh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó đã rải rác li ti những ánh lửa, tiếng hoan hỉ cười vui trôi dạt về phía bên kia chân trời. Tôi chợt nghĩ, nếu mà thần tiên ngó xuống nhân gian từ chín tầng mây cao kia, liệu chăng cũng cùng cảm giác thế này? Cũng phiêu diêu, cũng hư ảo, mờ nhạt mà xa xôi.
Cuối cùng, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ: "Nói cho cùng thì chàng muốn lấy ta à?"
Cố Tiểu Ngũ dường như có phần bất ngờ, chàng nhìn tôi một cái rồi mới bảo: "Đương nhiên muốn chứ."
"Nhưng mà tính ta không tốt đẹp gì, vả lại chàng là người Trung Nguyên, ta là người Tây Lương, ta thích ăn cơm kê, thích ăn thịt dê. Chàng nói tiếng Trung Nguyên ta nghe không hiểu, chuyện Trung Nguyên nhà chàng, ta cũng không rõ. Nếu bảo chàng ở lại Tây Lương, nơi đây cách Trung Nguyên đến ngàn dặm, thể nào rồi chàng cũng nhớ nhà. Còn như chàng không ở Tây Lương nữa, mà về Trung Nguyên, Trung Nguyên cách Tây Lương đến ngàn dặm, ta sẽ nhớ nhà lắm. Đành rằng chàng giết được vua sói mắt trắng, song chưa chắc đã là vì ta, chàng cũng nói đấy thôi, chẳng qua trên đường đi buôn thì tạt qua...Tuổi ta còn nhỏ thật, nhưng cũng hiểu những chuyện này đâu thể ép uổng..."
Tôi nói một hơi không ngưng nghỉ, đủ các thể loại phiền phức của cả 2 kể từ lần gặp gỡ đầu tiên cho đến nay, tôi đều nói cả thảy rồi, nói đến rạc cả cổ họng. Cố Tiểu Ngũ vẫn không hề ngắt lời tôi, mãi khi thấy tôi đặt sườn dê xuống, làm ngụm nước, chàng mới hỏi: "Nói nhiều thế này, thực chất toàn những chuyện chẳng liên quan gì. Ta chỉ hỏi nàng, rốt cuộc nàng có bằng lòng lấy ta không?"
Nước trong miệng tí nữa thì phun ra bằng sạch, tôi trừng trộ chàng ta hồi lâu, bỗng mặt nóng bừng: "Bằng lòng hay không...ơ..."
"Nói đi!" Chàng giục, "Tóm lại nàng bằng lòng không?"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét