CHUYỆN KỂ CỦA TU SĨ KHỔ HẠNH THỨ BA, CON VUA
“Thưa quý bà rất đáng kính, câu chuyện tôi kể
đây hoàn toàn khác với những câu chuyện bà đã nghe. Hai hoàng tử kể
chuyện trước tôi đều mỗi người mất một con mắt đơn thuần do hậu quả của
số mệnh, còn tôi bị chột thì lại do chính lỗi lầm của mình, tự mình gây
nên tội, tự mình rước vạ vào thân như chuyện tôi kể hầu bà nghe sau đây:
“Tôi tên là Agib, con một quốc vương tên
là Cassib. Sau khi phụ vương băng hà, tôi lên nối ngôi và vẫn đóng đô
tại nơi cha tôi đã trị vì. Kinh thành này toạ lạc trên bờ biển, có một
hải cảng vào loại đẹp nhất và an toàn nhất. Nó còn có một công xưởng khá
lớn đủ khả năng cung cấp thiết bị cho một trăm năm mươi chiến hạm luôn
luôn sẵn sàng phục vụ khi cần thiết. Ngoài ra còn trang bị cho năm chục
thương thuyền vận tải hàng hoá và cũng từng ấy những du thuyền nhỏ nhẹ
để đi dạo và vui chơi trên mặt nước. Vương quốc tôi còn có nhiều thành
phố tráng lệ với vô vàn hải đảo lớn, hầu hết đều nằm trong tầm nhìn của
kinh đô. Đầu tiên, tôi đi thăm các tỉnh.
Sau đó tôi cho vũ trang hạm đội và đi tuần du các đảo để động viên các
thần dân của mình hăng hái làm tròn trách nhlệm. Trở về một thời gian,
tôi lại đi tuần du và những chuyến đi về ấy đã ho tôi hiểu biết về nghề
hàng hải và thấy yêu thích nó. Vì vậy tôi quyết định làm một chuyến đi
thám hiểm xa ngoài những hòn đảo của mình. Để thực hiện dự định đó tôi
cho chuẩn bị mười chiếc tàu rồi giương buồm khởi hành. Bốn
mươi ngày đầu thuận buồm xuôi gió nhưng đến đêm thứ bốn mươi mốt thì bị
ngược gió dữ dội và một cơn bão mạnh tưởng chừng muốn nhận chìm cả đoàn
thuyền chúng tôi. Tuy nhiên, lúc trời hửng sáng thì cũng là lúc gió
cũng dịu dần, mây tan và trời đẹp. Chúng tôi ghé vào một hòn đảo, đừng
lại hai ngày để nghỉ ngơi lấy lại sức. Rồi lại tiếp tục ra khơi. Sau
mười hôm lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi hy vọng nhìn thấy đất liền
vì cơn bão vừa qua đã làm tôi thay đổi ý định ra lệnh cho quay trở về.
Tôi chợt nhận thấy là người hoa tiêu bị lạc phương hướng không biết là
tàu mình hiện đang ở đâu. Tôi ra lệnh cho một thuỷ thủ leo lên đỉnh cột
buồm cao nhất để thăm đò thì gã báo cho biết là về phía phải và bên trái
xa tít tận chân trời chỉ thấy mênh mông trời và biển. Nhưng về phía
trước mặt, phía mũi con tàu thấy có một mảng đen lớn. Nghe thấy vậy, người hoa tiêu mặt biến sắc, một tay dứt khăn trên đầu ném xuống sàn tàu, tay kia tự tát vào mặt mình và kêu to: -
Ôi! Bệ hạ, chúng ta nguy mất rồi! Không một ai trong chúng ta thoát
khỏi hiểm nguy này. Với tất cả kinh nghiệm của mình, tôi không sao có
thể bảo đảm cho chúng ta thoát hiểm được. Nói
xong hắn nức nở khóc như một người biết chắc mình không sao tránh khỏi
chết. Sự tuyệt vọng cả y gieo hoang mang cho toàn thể mọi người trên
tàu. Tôi hỏi vì lý do gì mà y lại tuyệt vọng tới vậy. -
Than ôi! Tâu bệ hạ - Hắn đáp- Cơn bão đã đánh lạc hướng chúng ta quá xa
cho nên chỉ đến trưa ngày mal thôi là chúng ta sẽ tới gần cái mảng đen
đó chẳng có gì khác là một quả núi màu đen, là một mỏ nam châm ngay lúc
này đang hút đoàn tàu chúng ta vì những chiếc đinh và sắt thép cấu tạo
con tàu. Ngày mai khi chúng ta tôi gần nữa thì sức hút nam châm càng
mạnh, mạnh đến nỗi là tất cả nhũng chiếc đinh ở sườn tàu sẽ như bị rút
ra bay đến dính vào quả núi. Các tàu của chúng ta sẽ bị vỡ tan và đắm
ngay tại chỗ. Sườn phơi ra phía biển của quả núi này dính vô vàn nhũng
chiếc đinh sắt của không biết bao nhiêu tàu bè mà nó làm cho đắm. Do đó
mà lực hút của quả núi này mỗi ngày lại mạnh hơn lên. Núi này người hoa
tiêu nói tiếp - vô cùng hiểm trở. Trên đỉnh núi có một cái vòm bằng đồng
nguyên chất, những cột chơng cũng.bằng đồng. Trên đỉnh vòm nhô lên một
con ngựa đúc đồng nguyên khối, cưỡi trên lưng ngựa là một kỵ sĩ, ngực
che một tấm chì trên đó có khắc hình bùa phép. Theo truyền thuyết, tâu
bệ hạ, thì bức tượng này là nguyên nhân chính của sự đắm chìm không biết
bao nhiêu tàu bè và bao nhiêu con người đã tử nạn ở chốn này. Và tai
hoạ vẫn còn cứ kéo dài cho tới khi nào lật đổ được pho tượng đó. Người
hoa tiêu kể xong lại khóc và tất cả đoàn thuỷ thủ cũng sụt sùi khóc
theo. Bản thân tôi, tôi không tin là mình tới ngày tận số. Tuy vậy, mỗi
người đều cùng lo cho mình cách riêng để tự bảo vệ. Và trong cái tình
thế chưa biết ngã ngũ ra sao họ đi chúc lẫn cho nhau, cho những ai may
mắn sống sót. Sáng hôm sau chúng tôi nhìn
thấy rõ quả núi đen và với những điều đã nghe biết, chúng tôi càng thấy
nó thật rùng rợn. Đến buổi trưa, quả núi đã xích lại khá gần và đúng
như lời người hoa tiêu đã báo trước, chúng tôi nhìn thấy những chiếc
đinh và tất cả những thứ gì bằng sắt đều nhất loạt rời tàu, bay vèo vèo
về phía quả núi. Lực hút của nam châm cực mạnh đã làm cho những thứ bằng
sắt này đập mạnh vào sườn núi tạo thành một thứ âm thanh thật ghê rợn.
Những con tàu toác ra và chìm nghỉm xuống đáy biển rất sâu. Tất cả đoàn
tuỳ tùng của tôi đều chết đuối. Nhưng Thượng đế đã rủ lòng thương cho
tôi bám được vào một tấm ván, và gió đẩy giạt tới chân quả núi đen. Tôi
không bị thương và may mắn cho tôi là đã cập bờ vào một nơi có những bậc
trèo lên đến tận đỉnh núi”. Scheherazađe
muốn kể tiếp câu chuyện, nhưng trời sáng đã khiến nàng im lặng. Hoàng
đế thấy quả là hoàng hậu không đánh lừa mình vì phần mở đầu thật là hấp
dẫn. Vì vậy chúng ta cũng sẽ chắng ngạc nhiên chút nào là ông chưa ra
lệnh đưa hoàng hậu ra hành quyết ngày hôm đó.
-
Nhân danh Thượng đế - Gầ n sáng hôm sau Dinarzade kêu chị - Nếu chị của
em không còn ngủ nữa thì xin chị kể tlếp chuyện tu si thứ ba đi? - Em thân yêu - Scheherazade đáp - Vị hoàng tử này đã kể tiếp chuyện của mình như sau: “Nhìn
thấy những bậc đá đó, tôi đã tạ ơn Thượng đế hết lời và vừa trèo lên
vừa niệm tên thánh của Người vì nhìn sang phải, sang trái đều không có
chỗ nào đặt chân. Đường đi lên hẹp, dốc đứng và khúc khuỷu đến mức tôi
nghĩ chỉ cần một cơn gió không mạnh lắm cũng đủ gạt tôi ngã lăn tòm
xuống biển. Nhưng cuối cùng tôi đã an toàn trèo lên được tới đỉnh núi.
Tôi đi vào đưới cái vòm bằng đồng và quì xuống hôn mặt đất tạ ơn Thượng
đế đã ra tay phù trợ. Tôi qua đêm dưới cái vòm đó. Trong giấc ngủ, tôi chiêm bao thấy một lão trượng đáng kính hiện ra trước mắt bảo tôi: Con
hãy nghe đây, Agib! Khi ngủ dậy, con hãy đào đất ngay chỗ chân con đó.
Con sẽ thấy một cái cung bằng đồng và ba mũi tên bằng chì được chế tạo
ra dưới những chòm sao tất để giải thoát cho loài người khỏi bao nhiêu
tai ách luôn đe doạ họ. Con hãy lần lượt bắn ba mũi tên này vào pho
tượng. Người kị sĩ sẽ ngã nhào xuống biển và con ngựa thì đổ về phía
con. Con sẽ chôn con ngựa xuống chỗ con đã đào được cung tên. Làm xong
việc này mặt biển sẽ dâng lên ngang với đỉnh núi, tới tận chân vòm. Khi
nước dâng tới đó, con sẽ thấy một chiếc xuồng nhỏ chỉ có một người chèo
tới bằng mỗi tay một bơi chèo. Người này cũng bằng đồng nhưng khác với
người kị sĩ mà con đã bắn nhào. Con lên xuồng và để cho y chèo đi, nhớ
không được đọc đến tên Thượng đế. Trong mười ngày y sẽ lái xuồng cho con
đi sang một biển khác và từ chỗ này con có thể tìm được đường về vương
quốc của con an toàn miễn là, như ta đã đặn, trong suốt cuộc hành trình,
tuyệt đối không được nhắc đến tên Thượng đế. Đó
là tất cả những điều ông cụ đó bảo và dặn dò tôi. Thức giấc, tôi thấy
như nhẹ cả người, và ngay lập tức làm theo lời đã được dặn trong mộng.
Tôi đào đất, lượm lên cây cung và ba mũi tên. Giương cung bắn vào tượng
kị sĩ đồng, đến phát thứ ba thì nó nhào xuống biển, còn con rlgựa thì
lăn kềnh xuống cạnh tôi. Tôi chôn nó vào cái hố cung tên và thấy mặt
nước biển từ từ dâng lên. Khi mực nước ngang với chiều cao ngọn núi và
tràn tới chân vòm thì tôi nhìn thấy phía xa một chiếc xuồng lao đến phía
mình. Tôi cảm tạ Thượng đế thấy mọi cái đều xảy ra trình tự đúng như
trong glấc mộng. Cuối cùng chiếc xuồng cập bờ và tôi nhìn thấy người lái
bằng đồng như cụ già đã tả. Tôi trèo lên xuồng và nhớ đinh ninh là
không được kêu tên Thượng đế, tôi cũng chẳng nói câu nào, im lặng ngồi
xuống và người lái bằng đồng bắt đầu chèo đưa chiếc xuồng ra xa quả núi.
Nó chèo liên tục đến ngày thứ chín thì tôi trông thấy những hòn đảo
quen thuộc làm cho tôi vui mừng thấy sắp thoát hiểm nghèo. Mừng vui quá
độ đã làm tôi quên phắt điều cấm kỵ. Tôi kêu lên: Tạ ơn Thượng đế? Vinh
quang thuộc về Người! Chưa dứt lời thì
chiếc xuồng chìm nghỉm luôn xuống sâu cùng với người lái bằng đồng, còn
tôi thì chới với trên mặt nước. Tôi bơi bơi cho tới cuối ngày, nhằm
hướng đất liền mà tôi thấy gần nhất. Một đêm tối mù tối mịt nối tiếp và,
tôi chẳng rõ lúc này ở vào chỗ nào mà cứ bơi bừa. Sức yếu dần, tôi bắt
đầu thất vọng thấy mình khó thoát chết thì gió bỗng nổi mạnh, một làn
sóng cao như một ngọn núi hất tôi lên một bãi cát rồi rút đi và để tôi
nằm lại đó. Tôi vội vàng nhổm đậy chạy nhanh vào phía đất ìiền sợ một
làn sóng khác lại chồm tới mang tôi đi. Việc làm đầu tiên là cởi áo quần
ra, vắt khô nước rồi trải ra phơí trên mặt cát hãy còn hơi nóng của ban
ngày. Ngày hôm sau, mặt trờĩ chẳng mấy
chốc đã làm nốt việc hong khô kiệt tất cả áo quẩn của tôi. Tôi mặc vào
và đi tìm hiểu xem hiện nay mình ở đâu. Mới đi được một quãng đùờng thì
đã hiểu la mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ rất trù phú, mọc rất nhều
cây ăn quả. Nhưng đồng thời tôi cũng nhận thấy là nó ở rất xa đất liền,
điều này ]àm giảm đi nhiều niềm vui là được thoát chết trôi trên biển.
Dù sao tôi cũng phó mặc số mệnh mình cho - Thượng đế định đoạt tuỳ ý
muốn của Người. Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy một con tàu nhỏ từ đất liền
đi ra, giương hết buồm và mũi tàu hướng về hòn đảo tôi đang đứng. Không
còn nghi ngờ gì là nó sẽ cập vào hòn đảo này. Chưa rõ hành khách trên
tàu là bạn hay thù, nên tôi thấy là chưa nên xuất đầu lộ diện. Trèo lên
một cây cao, cành lá rậm rạp, ở đó tôi có thể quan sát thấy những gì
trên tàu. Con tàu tới đỗ trong eo nhỏ và có độ mười tên nô lệ bước xuống
mang theo một cái xẻng và những dụng cụ đào đất khác. Chúng đi tới giữa
đảo và tôi nhìn thấy chúng dừng lại đào sới một lát. Nhìn hành động của
chúng hình như chúng lật lên một cái cửa nắp. Rồi chúng quay lại nơi
tàu đỗ khiêng xuống nhiều đồ đạc rồi thụt xuống. Tôi hiểu ra là ở chỗ đó
có một hầm ngầm. Tôi nhìn thấy chúng đi một lần nữa về tàu và một lát
sau xuống cùng với một ông già, ông này dắt theo một thiếu niên khoảng
mười bốn, mười lăm tuổi rất đẹp trai. Tất cả đều thụt xuống hầm chỗ cái
cửa nắp đã mở và khi lên họ hạ cửa nắp xuống, đắp đất lên rồi đi về phía
cái eo nhỏ, nơi tàu thả neo, tôi nhận thấy là không có cậu thanh niên
trong bọn họ. Từ đó tôi kết luận là chàng trai này đã ở lại dưới hầm
ngầm, điều làm tôi hết sức kinh ngạc. Ông
già và các nô lệ bước lên tàu và giương buồm đi theo hướng về đất liền.
Khi con tàu đã đi khuất, tôi từ trên cây leo xuống và lập tức đi tới
chỗ họ vừa đào bới. Đến lượt tôi cũng vục
tay bới đất cho tới lúc đụng vào một tấm đá vuông khoảng hai ba bộ, tôi
lật lên và thấy nó che lấp lối xuống của một cầu thang cũng bằng đá.
Tôi bước vào bậc thang đi xuống và thấy mình đang ở một gian phòng rộng
trong đó có một thảm chùi chân và một chiếc sập trên trải một tấm thảm
khác và những gối tựa bọc vải đẹp. Chàng trai ngồi trên sập tay cầm
chiếc quạt. Tôi nhận thấy tất cả những thứ đó dưới ánh sáng của hai cây
nến và bên cạnh chàng trai còn có nhiều trái cây và những bình hoa. Chàng trai giật mình hoảng hốt khi nhìn thấy tôi. Nhưng để cho chàng ta yên tâm, tôi vừa đi vào vừa nói: Dù
cậu là ai chăng nữa thì cũng xin đừng sợ. Một ông vua và một hoàng tử
như tôi đây không thể có bất cứ một sự xúc phạm nào đối với cậu. Trái
lại, số phận may mắn của cậu đã khiến tôi có mặt tại đây để đưa cậu ra
khỏi nấm mồ này vì hình như người ta đã đem chôn sống cậu vì những lý do
gì tôi không rõ. Nhưng điều làm tôi băn khoăn và thấy khó lòng chấp
nhận được (vì tôi đã được mục kích tất cả những gì xảy ra từ lúc có
người tới đảo này) là dường như cậu đã để cho họ chôn sống cậu tại đây
mà không có sự chống đối nào...”. Scheherazade
kể tới đây thì ngừng lại và hoàng đế thì đứng lên băn khoăn không biết
vì sao mà chàng thiếu niên này lại bị bỏ đưới hầm trên một hòn đảo
hoang. Ông nhủ thầm sẽ nghe tiếp đêm sau cho rõ.
Dinarzade, khi thấy tới giờ, bèn gọi hoàng hậu: - Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi. Scheherazade không để em phải nhắc lại, kể tiếp như sau: “Chàng thiếu niên - Tu sĩ thứ ba tiếp - nghe nói vậy thì yên tâm và tươi cười mời tôi ngồi xuống cạnh mình. Chàng ta nói ngay. -
Thưa hoàng tử, tôi sẽ nói để ngài rõ, ngài sẽ phải lấy làm ngạc nhiên
về sự đặc biệt khác thường của nó. Nguyên cha tôi là một nhà buôn vàng
ngọc trở nên rất giàu có nhờ vào sức lao động và tháo vát khéo tay trong
nghề nghiệp. Người có nhiều nô lệ, và những người giúp việc thường có
những chuyến đi biển trên những chiếc tàu của cha tôi để giữ mối liên
lạc với nhiều triều đình mà cha tôi cung cấp những đồ châu báu mà họ
cần. Kết hôn đã lâu mà chưa có con, một
lần trong giấc mộng người được biết là sẽ có một con trai nhưng người
con này đoản mệnh nên khi thức giấc người vô cùng buồn bã. Ít ngày sau
đó, mẹ tôi báo cho người biết là bà đã có mang vào thời gian mà cảm thấy
cái thai đậu lại rơi đúng vào ngày ông nằm mộng. Sau chín tháng bà sinh
ra tôi, cả nhà hết sức vui mừng hoan hỉ. Cha
tôi có mặt trong ngày tôi ra đời, đã đi xem bói chiêm tinh. Các ông
thầy bảo: “Con trai ông sống khoẻ mạnh đến tuổi mười lăm, nhưng tới lúc
đó sẽ gặp tai hoạ khó lòng thoát khỏi. Qua được nạn này thì sẽ thọ lâu.
Cũng vào lúc đó - Các thầy nói thêm - tượng kị sĩ bằng đồng trên đỉnh
núi nam châm sẽ bị hoàng tử Agib, con quốc vương Cassib, bắn nhào xuống
biển và các vì sao chỉ rõ là năm chục ngày sau đó, con trai ông bị hoàng
tử Agib giết chết. Vì lời tiên đoán đó
phù hợp với giấc mộng của cha tơi nên ông vô cùng buồn bã. Dù vậy ông
vẫn không hề lơ là trong việc giáo dục tôi cho đến nay, năm tôi tròn
mười lăm tuổi. Hôm qua người được biết là kị sĩ bằng đồng đã bị hoàng tử
Agib bắn nhào xuống biển đã được mười ngày. Tin ấy làm người rơi không
biết bao nhiêu nước mắt và hoảng hốt đến mức mọi người không còn ai nhận
ra ông nữa. Dựa trên những lời tiên đoán
của các thầy chiêm tinh ông tìm cách đánh lừa ngôi sao bản mệnh của tôi
để giữ lấy mạng sống cho tôi. Ông đã đề phòng cho xây dựng nơi ở này
rất lâu rồi để làm chỗ cho tôi ẩn nấp trong khoảng thời gian năm mươi
ngày kể từ khi pho tượng trên núi nam châm bị lật đổ. Cũng vì vậy khl
biết tin pho tượng đó bị lật đổ đã được mười ngày thì ông vội vàng mang
tôi tôi đẩy cho xuống hầm kín ẩn náu và hẹn là trong bốn chục ngày nữa
ông sẽ đến đón tôi về. Còn về phần tôi – Chàng trai nói thêm - tôi tràn
đầy hy vọng và không tin là hoàng tử Agib lại tới cái đảo hoang này tìm
tôi trong hầm kín. Đó, đó là tất cả câu chuyện tôi muốn nói cùng ngài. Trong
khi người con trai nhà buôn châu ngọc kể chuyện về mình, tôi giễu thầm
các nhà chiêm tinh đã có những lời tiên đoán vô cùng lạc lõng. Vì vậy
nghe xong câu chuyện tôi sôi nôi bảo cậu ta: “chàng trai thân mến, hãy
tin vào lượng khoan hồng của Thượng đế và chẳng nên sợ hãi gì hết. Hãy
coi như đây là một món nợ phải trả và kể từ lúc này cậu đã trang trải
xong. Tôi lấy làm hài lòng, là sau khi làm đắm xuồng đã tới đây để bảo
vệ cậu chống lại những kẻ muốn làm hại tới cuộc sống của cậu. Tôi sẽ
không bỏ cậu trong suốt thời gian bấn chục ngày còn lại mà những lời
đoán bậy của các tay chiêm tinh làm cho cậu lo lắng. Trong thời gian đó
tôi sẽ giúp cậu tất cả những việc gì tôi có thể làm. Sau đó, tôi sẽ lợi
dụng thời cơ để trở về đất liền, cùng lên tàu với cậu với sự đồng ý của
than phụ cậu và cậu. Và khi về ,tới vương quốc của tôi, tôi sẽ không
quên ơn và sẽ cố gắng thể hiện sự biết ơn của tôi thật xứng đáng. Những
lời nói của tôi làm cho cậu ta yên tâm và tin cậy. Tôi tránh không nói
mình chính là Agib làm cho cậu ta sợ hãi và để cho cậu ta không nghi ngờ
bất cứ một điều gì nên tôi còn rất thận trọng trong lời nói và cử chỉ.
Chuyện trò với nhau về nhiều vấn đề mãi tới khuya, tôi nhận thấy chàng
trai này thật thông minh. Chúng tôi cùng ăn với nhau những thức ăn đã
được đự trữ trong hầm. Thức ăn nhiều không những đùng thừa trong suốt
bốn chục ngày mà ngoài tôi là khách ra còn có thể ehu cấp cho nhiều
người khác nữa. Sau bữa ăn, chúng tôi tiếp tục chuyện trò một lát nữa
rồi mới đi ngủ. Sáng hôm sau, thức đậy,
tới mang đến một chậu nước cho cậu ta rửa mặt rồi tôi sửa soạn nấu nướng
và đến bữa thì dọn ra cùng ăn. Sau bữa ăn, tôi bày ra một trò chơi gì
đấy không những để chơi trong ngày mà còn cả cho những ngày tiếp sau
nữa. Bữa chiều tôi cũng làm như thế. Chúng tôi ăn, chuyện trò rồi đi ngủ
cũng như ngày hôm trước. Thời gian đã
làm cho chúng tôi mỗi lúc lại thân nhau hơn. Tôi nhận thấy là cậu ta rất
quí mến tôi và về phía tôi, một tình cảm đặc biệt đã khiến tôi coi cậu
ta như một người ruột thịt. Tôi thường nghĩ thầm trong bụng: bọn thầy
bói bảo với cha cậu ta là con ông sẽ bị giết bởi bàn tay của tôi thì
đúng là bọn lừa bịp. Không sao có thể xảy ra chuyện tôi lại phạm vào một
hành động tội ác như vậy được. Cuối cùng, thưa bà, chúng tôi đã qua
được ba mươi chín ngày êm đềm vui vẻ nhất thế gian ở cái hầm dưới mặt
đất đó. Rồi đến ngày cuối cùng, ngày thứ
bốn mươi. Buổi sáng, khi thức đậy, chàng trai trẻ dạt dào một niềm vui
không ngăn lại được, nói với tôi: Hoàng tử ơi Ngày thứ bốn mươi tới đây
rồi, thế mà tôi chẳng sao cả, tôi không chết. Vô cùng biết ơn Thượng đế
và tình bạn tất của ngài. Cha tôi cũng sẽ chẳng bao giờ quên ơn ngài và
người sẽ tạo đầy đủ các phương tiện và những tiện nghi cần thiết để giúp
ngài trở về quê hương. Trong lúc chờ đợi - Cậu ta nói thêm - Xin ngài
làm ơn đưa cho tôi một thùng nước nóng để tôi tắm rửa sạch sẽ, thay quần
áo đẹp để tiếp đón cha tôi cho thật đàng hoàng. Tôi
đặt thùng nước trên lò lửa và khi đã đủ độ nóng ấm, tôi trút vào bồn
tắm. Chàng trai bước vào, tôi kỳ cọ cho cậu ta. Bước ra khỏi bồn tắm,
cậu ta tới nằm nghỉ trên giường mà tôi đã sửa soạn sẵn, tôi đắp mền cho
cậu. Nằm và ngủ được một lát, cậu ta bảo tôi: “Hoàng tử ơi, xin làm ơn
đem đến cho tôi một quả đưa cùng với đường để tôi ăn cho người tỉnh
táo”. Trong rất nhiều quả đưa còn lại,
tôi chọn quả ngon nhất để vào một cái đĩa. Vì nhìn quanh không thấy con
dao nào để bổ đưa, tôi hỏi chàng trai là có biết đao để ở đâu không. “Có
một con dao nhọn - Chàng ta bảo tôi - ở cái hố tường trên đầu tôi đây
này!. Đúng vậy, tôi đã trông thấy con dao nhọn đó nhưng quá hấp tấp để
với lấy và khi đã cầm trong tay rồi, chân tôi lại bị vướng trong cái
chăn đắp nên đã ngã xuống người cậu ta và mũi dao nhọn đâm vào ngực
trúng tim chàng trai làm cậu ta chết ngay. Trước
cảnh tượng đó, tôi kêu rú lên. Tôi đấm mạnh vào đầu, vào mặt, vào ngực
mình, tôi xé quần xé áo và lăn lộn dưới đất, đau khổ và hối tiếc không
biết ngần nào. - Chao ôi! - Tôi kêu lên -
Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi là thoát ra ngoài vòng nguy hiểm. Để
chống lại, cậu ta đã tìm nơi ẩn lánh và trong lúc ta cũng nghĩ là tai
nạn đã qua rồi thế mà... bây gịờ ta lạị trở thành kẻ sát nhân và làm cho
lời tiên tri đó trở thành hiệu nghiệm. Nhưng, hỡi đấng tối cao - Tôi
giơ hai tay và ngửa mặt lên trời nói thêm - Nếu tôi đúng là thủ phạm
giết chàng trai này, thì xin đừng để cho tôi sống nữa. Scheherazade
bắt buộc phải ngừng câu chuyện bi thảm này lại vì thấy trời đã hé sáng.
Hoàng đế các xứ Ấn Độ rất xúc động và băn khoăn là sau những chuyện đó
thì người tu sĩ ra sao. Ông chưa hạ lệnh cho hành quyết hoàng hậu
Scheherazade ngày hôm đó vì chỉ duy có nàng mới giải được cho ông nỗi
thắc mắc này.
Dinarzade, như thường lệ, đánh thức hoàng hậu: - Nếu chị không ngủ, em xin chị kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra sau cái chết của chàng thiếu niên ấy. Scheherazade tức thì kể tiếp như sau: “Thưa
bà - Tu sĩ thứ ba nói với zobéide - Sau bất hạnh xảy ra, tôi sẵn sàng
đợi cái chết đến không mảy may sợ hãi. Nhưng điều xấu cũng như điều tất
không phải là chúng ta cứ cầu xin là được. Tuy
vậy, lắng sâu suy nghĩ thấy là những giọt nước mắt cũng như nỗi đau
lòng cũng không thể làm sống lại chàng trai này và rồi đây hết bốn chục
ngày rất có thể tôi bị người cha bắt gặp thì cũng thật lôi thôi nên tôi
đi ra khỏi hầm và trèo lên các bậc thang. Tôi hạ tấm đá to chặn lối vào
và lấp đất. Vừa xong, tôi hướng tầm mắt
về phía đất liền thì đã trông thấy con tàu đang đi tới để đón chàng trai
trẻ. Suy nghĩ xem phải làm gì đây, tôi tự nhủ: “Nếu tôi ra mắt, ông già
nhất định sẽ cho bắt giữ và rất có thể bọn nô lệ sẽ giết tôi khi ông
trông thấy tình trạng của con trai do chính tôi gây ra. Dù tôi có ra sức
biện bạch thế nào chăng nữa thì ông cũng sẽ không tin là tôi vô tội.
Tốt hơn hết là mình nên tránh mặt đi còn hơn là đưa thân ra hứng chịu
lấy cơn thịnh nộ của ông ta. Gần cái hầm
đó có một cây to mà cành lá rậm rạp có thể che cho tôi được. Tôi trèo
lên và chỉ vừa kịp tìm được một chỗ kín đáo thì tôi đã thấy con tàu đó
cập vào chỗ đã neo đậu lần đầu. Ống già
cùng đám nô lệ xuống ngay tàu và bước tới phía hầm ngầm với vẻ mặt đượm
nhiều niềm hy vọng, nhưng khi thấy mặt đất vừa bị đào xới, họ biến sắc,
nhất là ông già. Họ dựng tấm đá lên và bước xuống các bậc thang. Họ cất
tiếng gọi tên chàng thiếu niên, không có tiếng đáp. Họ sợ hãi bội phần,
họ tìm kiếm và cuối cùng thấy cậu ta nằm thẳng trên giường, với con dao
nhọn cắm giữa tim vì tôi đã không có can đảm rút nó ra. Nhìn thấy vậy,
họ rú lên đau đớn. Tiếng rú của họ cũng làm lòng tôi quặn thắt. Ông già
ngã xuống ngất lịm. Bọn đầy tớ khiêng ông lên khỏi hầm cho thoáng khí và
đặt ngay dưới gốc cây trên đó tôi đang nm thở cố thu mình lại. Nhưng dù
được chăm sóc tận tình, người cha khốn khổ này vẫn bằn bặt mê man làm
cho bọn đầy tớ tưởng ông khó lòng qua khỏi. Nhưng
rồi cuối cùng ông cũng tỉnh lại sau cơn ngất lịm khá lâu. Rồi bọn nô lệ
mang thi hài của con trai ông đã được mặc vào những tấm áo quần đẹp
nhất. Và sau khi đào xong hố, họ đã từ từ trịnh trọng đặt cậu thiếu niên
xuống đó. Ông già, được hai tên đầy tớ đỡ hai bên, mặt chan hoà nước
mắt, là người đầu tiên ném một nắm đất xuống huyệt mộ, sau đó bọn đầy tớ
đã san lấp đất đầy hố. Xong việc chôn
cất, tất cả những đồ đạc, lương thực đưới hầm đều được lấy lên đưa tất
cả lên tàu. Ông già không còn đủ sức bước đi nữa, được đặt nằm lên cáng
rồi tất cả lên tàu kéo buồm rời đảo trở về đất liền. Chỉ một thoáng sau,
con tàu đã xa khỏi tầm mắt tôi”. Ánh
sáng ban ngày đã chiếu vào phòng ngự của Hoàng đế đất nước Ấn Độ buộc
Scheherazade ngừng lời. Schahriar cũng đứng lên như mọi khi và cũng vẫn
cùng một lý do như đêm trước, ông vẫn để hoàng hậu còn được sống và ở
lại cùng với Dinarzade.
Hôm sau trước khi trời sáng, Dinarzade bảo chị: - Chị yêu quí của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em nghe nốt chuyện của tu sĩ khổ hạnh thứ ba đi . -
Thế này em nhé - Scheherazade nói - Em vẫn phải nhớ là vị hoàng tử này
vẫn đang kể cho Zobéide và cả các bạn của ành ta nghe chuyện mình. Anh
ta kể tiếp như sau: “Sau khi con tàu mang
ông già và bọn đầy tớ của ông đi khuất, còn một mình tôi trên hòn đảo.
Đêm, tôi ngủ trong hầm vẫn để ngỏ và ban ngày tôi đi dạo quanh hòn đảo
và khi mỏi chân thì tìm chỗ thuận tiện để nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Tôi
kéo dài cuộc sống buồn nản như thế khoảng một tháng trời. Vào những
ngày cuối, tôi thấy là nước biển rút đi khá nhiều và hòn đảo thì lớn ra
hơn trước, đường như đất liền tiến lại gần. Quả thật là mặt biển xuống
thấp đến mức chỉ còn một quãng ngắn ngập nước ngăn cách giữa tôi và đất
liền. Tôi lội qua, nước biển chỉ tới ngang bắp chân. Tôi bước đi thật
lâu trên cát đến mệt lử người. Cuối cùng tôi đặt bước trên một vùng đất
rắn chắc hơn và thấy mình đã rất xa biển. Bỗng nhìn thấy phía trước mặt
một đám lửa lớn làm tôi hết sức vui mừng. Mình sẽ gặp một ai đó - tôi
nhủ thầm - vì không thể là tự nhiên lại có đám lửa đó. Nhưng đi tới gần
thì mới vỡ lẽ ra là cái đám màu đỏ mà tôi ngỡ là lửa thì lại là một toà
lâu đài bằng đồng đỏ mà ánh sáng mặt trời chiếu vào làm cho ai từ đằng
xa nhìn dễ bị nhầm là một đám cháy. Tôi
dừng lại và ngồi xuống bên cạnh toà lâu đài đó chẳng phải là vì muốn
ngắm nhìn một kiến trúc tuyệt vời mà chỉ vì muốn ngồi nghỉ để lấy lại
sức vì đã quá mệt nhọc, rã rời cả chân tay. Chưa kịp suy nghĩ gì về toà
lâu đài mỹ lệ này thì tôi chợt nhìn thấy mười thanh niên chững chạc
đường như đi đạo về. Nhưng điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là tất cả đều
chột bên mắt phảl. Họ đi theo một ông già cao to có dáng điệu đáng
kính. “Tôi hết sức kinh ngạc sao lại gặp
một lúc nhiều người chột đến thế mà lại cùng chột một bên mắt như nhau.
Trong lúc tôi đoán già đoán non xem vì sao lại như vậy thì họ đi đến gần
và tỏ ra mừng rỡ được thấy tôi. Sau những lời thăm hỏi chúc tụng đầu
tiên, họ hỏi tôi vì sao lại đến đây. Tôi trả lời là câu chuyện của tôi
khá dài và nếu họ chịu khó ngồi xuống thì sẽ kể cho nghe. Họ cùng ngồi
xuống và tôi kể tất cả chuyện của tôi từ lúc tôi rời khỏi vương quốc cho
tới lúc này. Câu chuyện làm họ ngạc nhiên hết sức. Sau
khi câu chuyện kết thúc, những nhà quí phái trẻ này mời tôi cùng vào
lâu đài với họ. Tôi nhận lời. Chúng tôi đi qua rất nhiều phòng: phòng
ngoài, phòng đợi, phòng trong, văn phòng... tất cả đều được bầy biện
những đồ đạc lịch sự và rất sạch sẽ. Cuối cùng chúng tôi đi vào một
phòng khách lớn trong đó kê theo vòng tròn mười chiếc bệ nhỏ màu xanh
vừa dùng để ngồi, để nằm nghỉ ngơi ban ngày vừa để ngủ vào ban đêm. Ở
giữa cái vòng tròn đó là một chiếc bệ thứ mười một cùng màu nhưng kê
thấp hơn trên đó ông già mà tôi đã nhắc đến ngồi chễm chệ, còn mười
người trẻ tuổi llgồi trên mười chiếc bệ kia. Vì
mỗi chiếc bệ chỉ đủ chỗ cho một người nên một chàng trẻ tuổi bảo tôi: -
Bạn hãy ngồi vào tấm thảm ở giữa kia và không được hỏi han bất cứ điều
gì liên quan tới chúng tôi, cả nguyên nhân vì sao chúng tôi đều bị chột
bên mắt phải. Bạn hãy bằng lòng chỉ nhìn xem thôi và chớ nên để trí tò
mò của mình đi quá xa. Ông già không ngồi
lâu. Ông đứng đậy và đi ra ngoài. Một lát sau, trở vào mang theo bữa ăn
tối cho mười chàng trẻ tuổi, mỗi người đều ăn riêng phần của mình. Tôi
cũng được chia một phần và ăn một mình như những người khác. Và cuối bữa
thì cũng ông già đó đưa cho mỗi người một chén rượu. Câu
chuyện của tôi đối với họ kỳ lạ đến mức họ bắt tôi kể lại từ đầu bữa ăn
và sau đó bàn luận rôm rả cho tới khuya. Một trong các chàng trai cho
mọi người biết là đêm đã khuya và bảo ông già: - Ông thấy đó, đã đến giờ đi ngủ thế mà ông chẳng đưa cho chúng tôi những gì cần thiết để chúng tôi làm tròn nhiệm vụ. Nghe
nói thế, ông già đứng lên và đi vào một căn buồng, đội trên đầu lần
lượt mười chiếc chậu, cái nào cũng phủ vải xanh, mang ra đặt trước mặt
mỗi chàng cùng một cây đuốc. Họ mở nắp
chậu trong đó có tro, than bột và nhọ nồi. Họ trộn lẫn ba thứ đó với
nhau rồi bắt đầu chà sát và bôi lên mặt trông lem luốc đến phát khiếp
lên. Sau khi bôi đen mặt mũi như thế rồi, họ cất tiếng khóc dùng tay đấm
vào đầu vào ngực và không ngừng kêu: “Đây là kết quả của sự lười nhác
và truỵ lạc của chúng ta?”. Họ cứ làm như
thế hầu như hết cả đêm. Rồi cuối cùng họ cũng dừng lại và ông già mang
nước sạch đến cho họ rửa mặt mũi chân tay. Họ cũng cởi bỏ cả quần áo đã
đen bẩn, mặc quần áo khác. Trông họ lúc này lại như trước chứ không phải
là họ vừa làm những việc kỳ cục mà tôi đã được chứng kiến. Thưa
bà, xin bà hãy xét xem sự bực bội của tôi suốt thời gian đó. Hàng ngàn
lân tôi đã toan phá vỡ sự câm nín mà những chàng trai đã áp đặt cho mình
để hởi cho ra lẽ. Và tôi không sao mà nhắm mắt được trong quãng đêm còn
lại. Ngày hôm sau, mọi người thức dậy, ra ngoài hít thở không khí, tôi bảo họ: -
Thưa các ngài, tôi xin nói với các ngài là tôi phản bác luật lệ mà các
ngài đề ra cho tôi chiều hôm qua. Tôi không sao mà tuân theo được. Các
ngài đều là người khôn ngoan và thông minh rất mực, tôi biết rõ như vậy.
Thế nhưng tôi lại thấy các ngài có những hành động mà ngoài những kẻ
mất trí ra thì không ai làm như vậy. Dù cho tai hoạ nào đến với tôi
chăng nữa cũng không ngăn được tôi hỏi các ngài vì sao lại tự mình bôi
lem mặt mũi bằng tro, than và nhọ nồi. Rồi
vì sao mà tất cả các ngài đều chỉ còn một con mắt. Tất là phải có một
nguyên nhân đặc biệt nào đó chứ. Vì vậy tôi xin các ngài hãy thoả mãn
tính hiếu kỳ của tôi, cho tôi được rõ mọi sự. Trước
những van nài khẩn thiết như thế, họ chẳng nói chẳng rằng, quá lắm họ
chỉ bảo đó là những cái chẳng liên quan gì tới tôi cả, tôi có biết cũng
chẳng có lợi ích gì vậy thì cứ nên ở yên thôi. Ban
ngày chúng tôi trao đổi chuyện nọ chuyện kia chẳng đâu vào đâu cả nhưng
khi tối đến, sau khi ăn uống riêng rẽ, ông già lại mang những chiếc
chậu màu xanh ra, các chàng trai lại tự bôi lên mặt mũi mình cho đen đủi
nhem nhuốc, rồi khóc lóc, rồi tự đấm vào mình rồi kêu lên: “Đây là kết
quả của sự lười nhác và sự ăn chơi trác táng của chúng ta?”. Ngày hôm
sau và những ngày tiếp theo họ cũng vẫn làm như thế. Cuối
cùng không sao ngăn nổi trí tò mò, tôi nghiêm chỉnh đề nghị họ hoặc là
nói rõ cho tôi biết hoặc là chỉ đường cho tôi trở về cố hương vì tôi
không thể ở lâu hơn với họ nữa khi mà đêm nào cũng phải chứng kiến cái
cảnh tượng hết sức kỳ lạ mà không hiểu rõ nguyên nhân vì sao lại thế. Một trong các chàng trai thay mặt cho cả bọn bảo tôi: -
Xin đừng ngạc nhiên về thái độ của chúng tôi đối với ngài, nếu cho đến
lúc này chúng tôi không chịu nhượng bộ với những lời cầu xin năn nỉ của
ngài. Đó chẳng qua đơn thuần chỉ vì tình bạn đối với ngài mà thôi. Chúng
tôi muốn tránh cho ngài cái tình trạng đáng buồn như chúng tôi mà ngài
đã thấy. Nếu ngài thật muốn giống như số phận khốn khổ như chúng tôi thì
cứ nói, chúng tôi sẽ đáp ứng yêu cầu của ngài. Tôi bảo họ là tôi sẵn sàng hứng chịu mọi hậu quả. -
Một lần nữa - Vẫn chàng đó bảo - Chúng tôi khuyên ngài là nên kiềm chế
bớt tính tò mò của ngài lại. Nó sẽ làm cho ngài mất đi con mắt phải đó. -
Cũng chẳng sao – Tôi nói - Tôi xin tuyên bố với các ngài là nếu tai hoạ
đó xảy ra cho tôi, các ngài sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm và
đó là đo chính tôi gây nên. Chàng này
còn cho tôi biết là khi tôi đã bị mất một mắt thì sẽ không còn được ở
cùng với họ giả dụ là tôi có ý định đó vì số lượng đã đủ không thể thêm
nữa. Tôi bảo họ là được ở cùng với họ đối với tôi là một điều mong ước,
nhưng nếu cần thiết thì tôi cũng sẵn sàng phục tùng vì với bất cứ giá
nào, tôi cũng mong họ đáp ứng cho điều tôi đòi hỏi. Mười
chàng trai thấy quyết định của tôi là dứt khoát liền bắt một con cừu
giết chết, lột da, đưa cho tôi con dao mà họ đã dùng và bảo tôi: Ngài
hãy cầm lấy con đao này, nó sẽ giúp ích cho ngài trong trường hợp mà
chúng tôi sẽ nói cho ngài biết sau. Bây giờ ngài hãy nằm vào trong tấm
da cừu này để chúng tôi khâu kín lại. Rồi chúng tôi sẽ rút đi để lại
mình ngài ở đây. Lúc đó một con chim to lớn khác thường mà người ta gọi
là đại bàng sẽ xuất hiện trong không trung. Nó tưởng ngài là một con cừu
sẽ đâm bổ xuống cắp lấy ngài và bay lên tận chín tầng mây. Nhưng xin
chớ sợ, nó sẽ lại sà xuống mặt đất và đặt ngài xuống đỉnh một ngọn núi.
Khi chạm đất, ngài hãy dùng con dao này rạch tấm da cừu mà chui ra. Con
đại bàng trông thấy ngài sẽ hoảng sợ và bay đi mất, để ngài được tự do.
Chớ có dừng lại đó mà phải đi, đi cho tới lúc đặt chân trước một lâu đài
đồ sộ bao bọc bằng toàn những tấm vàng, những viên ngọc bích khổng lồ
và nhiều thứ đá quí nguyên chất khác. Ngài tới cửa lâu đài và bước vào
trong vì cửa luôn luôn để ngỏ. Tất cả chúng tôi ở đây cũng đều đã ở lâu
đài đó. Tôi sẽ không nói với ngài là chúng tôi đã trông thấy gì và những
gì đã xảy ra với chúng tôi tại đó. Ngài sẽ tự tìm hiểu lấy. Điều mà
chúng tôi có thể nói với ngài là chúng tôi mỗi người đã phải trả giá
bằng con mắt phải của mình, và cái hình phạt mà ngài đã chứng kiến là
một việc bắt buộc phải làm vì chúng tôi đã ở cái lâu đài đó. Chuyện
riêng của mỗi người chúng tôi chứa đầy những chi tiết phiêu lưu kỳ lạ mà
người ta có thể viết nên một cuốn sách dày, nhưng lúc này chúng tôi
không thể nói gì với ngài nhiều hơn”. Kể đến đây, Scheherazade ngừng lời và nói với Hoàng đế đất nước Ấn Độ: -
Vì em gái thiếp hôm nay đánh thức thiếp dậy sớm hơn mọi khi, kể dài sợ
phiền thánh thượng, nhưng kìa trời đã sáng đúng lúc buộc thiếp phải
ngừng. Tính hiếu kỳ của hoàng đế Schahriar đã thắng lời thề độc của
chính ông.
Dinarzade đêm nay không dậy sớm như đêm trước. Tuy vậy nàng vẫn gọi chị trước trời sáng: - Nếu chị không ngủ nữa thì chị kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi. Scheherazade kể tiếp như sau : vẫn là người tu sĩ khổ hạnh nói với Zobéide: -
Thưa bà, một trong mười chàng trai chột mắt đã nói như thế với tôi mà
tôi vừa kể bà nghe. Thế là tôi chui vào tấm da cừu, cầm theo con dao họ
đã đưa. Và sau khi họ đã khâu kín tấm da có tôi ở bên trong, họ để tôi
nằm lạĩ đó và rút về phòng khách. Con đại bàng lớn mà họ nói trước,
chẳng lâu la gì đã bay tới, sà thẳng vào tôi, dùng móng quắp tội lên như
quắp một con cừu và mang lên đỉnh một qua núi. Khi
cảm thấy mình đã nảm trên mặt đất, tôi không quên dùng con dao rạch tấm
đa, chui la trước mặt con đại bàng khi nhìn thấy tôi nó vội vàng vỗ
cánh bay đi mất. Con đại bàng này là một con chim có bộ lông trắng to
lớn khủng khiếp. Cứ sức ấy thì nó có thể tha như chơi một con voi ở dưới
đồng bằng đưa lên núi cao để xả thịt. Nóng
lòng muốn đi ngay tới lâu đài, không để mất thì giờ, tôi rảo bước và
chỉ trong nửa ngày đã tới. Tôi có thể nói là dưới mắt tôi, toà lâu đài
này còn lộng lẫy hơn nhiều như đã nghe tả. Cổng
mở, tôi đi vào một cái sân vuông rất rộng xung quanh có chín mươi chín
cửa ra vào bằng gỗ đàn hương và trầm hương và một cửa bằng vàng không kể
những cửa dẫn vào các cầu thang tráng lệ đưa lên những căn buồng phía
trên và còn nhiều cánh cửa khác nữa mà tôi không nhìn thấy. Một trăm cửa
ra vào mà tôi nói ở trên mở thong ra các khu vườn hoặc những kho tàng
chứa đầy của cải hoặc các nơi san sát những thứ đồ lạ mắt. Nhìn
thấy trước mặt có một cánh cửa mở, tôi đi vào. Đó là một phòng khách
rộng đã ngồi sẵn ở trong đó bốn lnươi thiếu phụ với sắc đẹp lộng lẫy mà
ngay cả sự tưởng tượng cũng khó vượt qua. Họ ăn vận thật sang trọng. Vừa
nhìn thấy tôi bước vào, họ đều nhất loạt đứng dậy và chẳng đợi tôi chào
hỏi chúc tụng, họ tỏ về hất sức mừng rỡ, bảo tôi: - Chàng trai tôn quí, xin chúc mừng, xin chúc mừng! Và một thiếu phụ thay mặt cho tất cả nói: -
Đã lâu rồi, chúng em chờ đợi một chàng trai hào hoa như chàng. Dáng
điệu của chàng đã nói cho chúng em thấy là chàng có đầy đủ những đức
tính mà chúng em mong ước và chúng em hy vọng rằng chàng không cho sự có
mặt của chúng em là khó chịu và chẳng xứng với chàng. Sau
rất nhiều lần thoái thác, tôi đành phải ngồi vào chỗ bị ép buộc, chỗ
cao hơn một chút so với chỗ ngồi của họ. Khi tôi tỏ ra vẻ miễn cưỡng thì
họ bảo: Đấy chính là chỗ của chàng, lúc
này chàng là lãnh chúa, là ông chủ, là quan toà của chúng em. Và chúng
em là nô lệ của chàng, sẵn sàng tuân theo những gì chàng ra lệnh. Không
có gì trên đời này, thưa bà, làm cho tôi ngạc nhiên hơn là thái độ
nhiệt tình và hăng hái của những thiếu phụ xinh đẹp này, sẵn sàng phục
vụ, đáp ứng tất cả những gì tôi yêu cầu. Một nàng đem nước nóng đến rửa
chân cho tôi. Một nàng khác đội nước thơm lên hai bàn tay tôi. Các nàng
này đem tới cho tôi quần áo mới để tôi thay, các nàng kia cho tôi ăn lót
dạ, và các nàng còn lại thì tiến đến cốc cầm tay sẵn sàng rót cho tôi
một thứ rượu tuyệt ngon. Tất cả công việc này được tiến hành nhịp nhàng,
với một trật tự phối hợp một cách khéo léo và với phong cách làm tôi
say mê. Tôi uống, tôi ăn... Sau đó tất cả xúm quanh tôi, đòi tôi,thuật
lại chuyến đi của mình. Tôi kể chi tiết tất cả những việc xảy ra cho họ
nghe và câu chuyện kéo đài mãi tới chập tối”. Scheherazade
ngừng lại ở đoạn này. Em nàng hỏi vì sao. Thế em không thấy trời sáng
rồi ư, hoàng hậu đáp. Tại sao không gọi chị dậy sớm hơn? Hoàng đế đoán
là người tu sĩ đến lâu đài có bốn chục thiếu phụ tuyệt đẹp như vậy chắc
là hứa hẹn sẽ có nhiều chuyện xảy ra đáng được chú ý. Ông chẳng muốn tự
tước cái thú được nghe tiếp của mình nên lại lui ngày xử hoàng hậu thêm
nữa.
So với đêm trước thì đêm nay Dinarzade không được nhanh nhẩu bằng. Hầu như trời đã tờ mờ sáng khi nàng nói với hoàng hậu: -
Chị thân yêu của em, nếu chị không còn ngủ thì xin chị nói cho em biết
có gì đã xảy ra ở cái lâu đài tráng lệ mà chị đã dừng lại đêm qua đó. -
Chị sẽ nói ngay cho em biết đây - Scheherazade đáp rồi quay sang nói
với hoàng đế - Tâu hoàng thượng, thế rồi người tu sĩ tiếp tục kể như thế
này: “Khi tôi đã kể câu chuyện của mình
cho bốn mươi thiếu phụ nghe xong, một vài nàng ngồi gần tôi còn nán lại
để cùng tôi trao đổi thêm, trong khi đó thì những người kia, thấy đêm đã
xuống, bèn đứng lên đi tìm nến thắp. Họ mang tới rất nhiều nến, thắp
lên sáng trưng chẳng kém ánh sáng ban ngày, nhưng các nàng đã sắp đặt
bày biện thật cân xứng đẹp mắt. Những
thiếu phụ khác bày lên bàn những trái cây khô, những loại mứt và các đồ
uống. Các thứ rượu uống bày đầy trong tủ. Một số các nàng xuất hiện với
các nhạc cụ trong tay. Khi tất cả đã chuẩn bị xong, các nàng mời tôi
ngồi vào bàn và họ cũng cùng ngồi xuống. Chúng tôi ngồi cùng nhau khá
lâu. Những nàng có nhiệm vụ chơi đàn và những nàng phải hoà giọng ca của
mình theo nhạc đều đứng lên và hình thành một đàn đồng ca thật quyến
rũ. Những nàng khác bắt đầu một điệu vũ từng đôi một cầm tay nhau nhảy,
hết đôi nọ đến đôi kia, yểu điệu và duyên đáng vô cùng. Quá nửa đêm, cuộc vui ngừng lại. Một trong các thiếu phụ cất tiếng, bảo tôi: -
Chàng đã mệt vì đoạn đường đi hôm nay, đã đến lúc chàng cần phải nghỉ
ngơi. Buồng riêng của chàng đã được sửa soạn, nhưng trước khi về đó
chàng hãy chọn cơ nào trong bọn thiếp mà chàng thấy thích hơn cả. Chàng
hãy đưa cô ấy về ngủ cùng chàng. Tôi đáp
là sẽ không làm việc chọn lựa đó theo lời đề nghị vì tôi thấy tất cả các
nàng đều đẹp, đều thông minh, đều xứng đáng với sự tôn trọng và ý thức
phục vụ của tôi. Tôi không muốn mắc vào khuyết điểm bất lịch sự nếu bảo
thích người nọ hơn người kia. Cũng thiếu phụ đã nói với tôi lại bảo: -
Chúng em rất tin ở sự thẳng thắn của chàng và chúng em thấy rõ là chàng
sợ chúng em sẽ sinh lòng ghen tuông với nhau nên giữ ý. Nhưng xin chàng
đừng ngại: chúng em đã cùng nhau thoả thuận là hạnh phúc của cô nào
được chàng chọn không làm cho chúng em ghen tuông chút nào, vì hằng đêm
lần lượt chúng em đều được hưởng hạnh phúc đó. Cứ bốn chục ngày là đến
lượt và lại bắt đầu lượt mới. Vậy chàng hãy cứ tự do lựa chọn đi, chớ
nên để mất thời gian cần cho sự nghỉ ngơi của chàng. Tôi
đành phải nhượng bộ và giơ tay ra cho nàng đã thay mặt tất cả chị em
trao đổi với tôi, nàng cũng đưa tay cho tôi và chúng tôi được dẫn tới
một căn phòng lộng lẫy. Người ta để chúng tôi chỉ còn hai người với
nhau, còn các thiếu phụ khác đều về phòng riêng của mình...”. -
Nhưng trời lại đã sáng mất rồi, tâu bệ hạ - Scheherazade nói với hoàng
đế - và xin Người hãy cho phép thiếp để lại tu sĩ vôi nàng thiếu phụ cửa
chàng ở trong căn phòng riêng của họ. Schahriar
lặng thinh nhưng ông đứng lên tự nhủ: phải công nhận là câu chuyện
tuyệt hay, ta sẽ mắc sai lầm to nhất trong thiên hạ nếu không để chút
thì giờ nghe nốt cho đến cuối.
Dinarzade, tàn đêm hôm sau, không quên bảo chị: - Chị ơi? Nếu chị không muốn ngủ nữa, thì em xin chị kể nốt câu chuyện kỳ thú về người tu sĩ thứ ba cho em nghe đi? - Chị xin vui lòng - Scheherazade đáp - Và đây là lời của vị hoàng tử đó kể tiếp chuyện mình: “Sáng
hồm sau, chỉ vừa mới mặc xong quần áo thì ba mươi chín thiếu phụ kia đã
kéo đến phòng tôi, tất cả đều trang điểm khác hẳn ngày hôm trước. Các
nàng chúc tội một ngày tốt đẹp và hỏi han tôi về sức khoẻ. Rồi các nàng
đưa tôi vào buồng tắm, tự tay kỳ cọ cho tôi và mặc dù ngoài ý muốn của
tôi, các nàng vẫn giúp tôi mọi việc cần thiết. Các nàng mặc cho tôi một
bộ quần áo khác còn đẹp hơn cả bộ hôm qua. Suốt
ngày hầu như chúng tôi chỉ ngồi ở bàn ăn và khi tới giờ đi ngủ, các
nàng lại bảo tôi chọn người để qua đêm. Thưa bà, để bà khỏi nhàm chán vì
cứ phải nghe nhắc đi nhắc lại cùng một việc đó, tôi xin nói tóm tắt là
suốt một năm tròn tôi sống với bốn mươi thiếu phụ và lần lượt mỗi đêm
tôi ngủ với một người. Và suốt cả thời gian đó, cuộc sống đầy hoan lạc
đó không hề bị bất cứ một sự buồn phiền nhỏ nhặt nào làm cho gián đoạn. Cuối
năm đó (không gì làm tôi bất ngờ hơn), bốn mươi thiếu phụ đó đáng lẽ
đến với tôi vui vẻ như thường ngày, hỏi thăm sức khoẻ... thì một buổi
sáng vào phòng tôi, nước mắt chan hoà. Họ lần lượt đến ôm hôn tôi và
nói: Vĩnh biệt hoàng tử yêu quí, vĩnh biệt? Chúng em buộc phải xa chàng
thôi”. Nước mắt của các nàng làm tôi xốn
xang. Tôi yêu cầu họ cho biết căn nguyên nỗi buồn của họ và sự ly biệt
mà họ vừa nói. Tôi nói thêm: - Nhân danh
Thượng đế, các cô em xinh đẹp của tôỉ, hãy cho tôi biết là có thể làm gì
để có thể an ủi và giúp ích được các cô em bây giờ? Đáng lẽ trả lời rõ ràng thì các nàng lại nói: -
Thượng đế chứng giám! Thà là chúng em. chưa hề quen biết chàng! Nhiều
người trước chàng cũng đã có dịp tới thăm hỏi chúng em nhưng không một
ai có được sự duyên dáng, dịu dàng, trẻ trung vui vẻ và tư cách như
chàng. Chúng em chẳng biết rồi đây sẽ phải sống ra sao khi thiếu chàng. Nói xong câu đó, các nàng lại khóc thảm thiết: -
Các cô nàng đáng yêu của tôi - Tôi nói - Tôi xin các nàng đừng làm cho
tôi sầu não hơn nữa, hãy nói ngay cho tôi biết nguyên nhân nỗi đau lòng
của các nàng. - Than ôi! - Các nàng bảo -
Còn có điều gì khác làm cho chúng em đau lòng là phải xa chàng nữa đâu?
Có thể chúng em chẳng còn bao giờ được thấy chàng nữa? Tuy vậy nếu
chàng muốn và vì chuyện này mà tự chủ được bản thân thì không phải là
không thể lại gặp được nhau. - Các nàng? - Tôi lại nói - Tôi chẳng hiểu các nàng muốn nói gì. Xin hãy nói rõ ra xem nào. -
Vậy thì - Một nàng nói - Để làm vừa lòng chàng, em nói cho chàng biết
chúng em đều là công chúa, con gái vua. Chúng em cùng nhau sống chung ở
đây trong cảnh lạc thú mà chàng thấy đó, nhưng cứ mỗi năm là chúng em
phải bắt buộc vắng mặt bốn mươi ngày cho những bổn phận cần thiết không
thể nói ra được. Sau đó chúng em sẽ lại trở về đây. Hôm qua là ngày hết
năm, hôm nay chúng em phải từ biệt chàng. Vì vậy đó là nguyên nhân nỗi
đau buồn của chúng em. Trước khi ra đi, chúng em sẽ để lại cho chàng tất
cả những chìa khoá? đặc biệt là chìa khoá cửa của trăm gian phòng mà
chàng sẽ thấy trong đó tất cả những thứ hay, lạ khả dĩ có thể thoả mãn
óc hiếu kỳ và làm dịu đi nỗi buồn cô đơn của chàng trong thời gian chúng
em vắng mặt. Nhưng vì điều tất cho chàng và vì lợi ích riêng của chúng
em, xin chàng chớ có đụng tới và mở cái cánh cửa bằng vàng của một phòng
đặc biệt trong số một trăm phòng kia. Nếu chàng mà mở ra thì chẳng. bao
giờ chúng ta cò thấy lại nhau nữa và chính nỗi lo đó lại càng làm chúng
em đau khổ. Chúng em mong là chàng sẽ làm theo lời chúng em căn dặn. Nó
quan hệ tới sự an bình, đến hạnh phúc của cuộc sống, chàng hãy thận
trọng, nếu chàng để cho tính tò mò thóc mách lấn át thì đó là chàng đã
mắc một sai lầm lớn. Chúng em khuyên chàng chớ mắc vào sai lầm đó và để
cho chúng em nuôi hy vọàg là sẽ được thấy lại chàng tại đây trong vòng
bơn mươi ngày nữa. Chúng em có thể mang theo chìa khoá của cái cửa bằng
vàng đó, nhưng sẽ là một sự xúc phạm đối với một hoàng tử đàng hoàng như
chàng, là đã nghi ngờ tính kín đáo và sự kiềm chế bản thân của chàng”. Scheherazade
muốn kể tiếp, nhưng nhìn thấy trời đã sáng. Hoàng đế, tò mò muốn biết
là người tu sĩ đó làm gì khi chỉ còn một mình trong lâu đài sau khi bốn
mươi thiếu phụ đã ra đi nên tự hẹn đến đêm sau chắc sẽ được làm sáng tỏ.
Cô gái hảo tâm Dinarzade thức giấc dậy khá lâu trước khi trời sáng, gọi hoàng hậu: - Chị ơi, nếu chị không ngủ nứa thì chị nên kể tiếp cho hoàng đế, lãnh chúa của chúng ta nghe câu chuyện mà chị đã bắt đầu đi! Scheherazade ngoảnh về phía Schahrlar nói: - Tâu hoàng thượng, Người đã biết là người tu sĩ vẫn kể chuyện mình cho Zobéide nghe. Anh ta kể tiếp như thế này: “Thưa
bà, lời dặn dò của những nàng công chúa xinh đẹp này thực sự làm tôi
đâu lòng. Tôi bày tỏ với các nàng là sự vắng mặt của các nàng làm tôi
buồn nhớ vô hạn. Tôi hết sức cảm ớn về những lời dặn dò chu đáo. Tôi hứa
với họ là sẽ nghe theo và hết sức cố gắng làm những việc khó khăn hơn
để có hạnh phúc được sống những ngày còn lại cùng những người đàn bà
hiếm có như các nàng. Cuộc chia tay diễn ra đầy lưu luyến. Tôi lần lượt
ôm hôn họ. Rồi các nàng ra đi, còn một mình tôi ở lại lâu đài. Niềm
lạc thú trong cuộc sống chung, những bữa tiệc thịnh soạn, các buổi hoà
nhạc, những trò vui chơi làm tôi bận rộn suốt cả năm khiến tôi chẳng còn
thời gian cũng như chẳng có một chút ý muốn nào xem những kỳ quan có
thể đầy đẫy trong cái lâu đài huyền ảo này. Tôi cũng chẳng mảy may chú ý
gì đến tất cả những đồ vật đẹp tuyệt vời dưới mắt tôi hàng ngày vì còn
mải mê say đắm trước nhan sắc của các thiếu phụ, được nhìn thấy họ chỉ
duy nhất quan tâm tới việc làm cho tôi vui thích. Tôi buồn đến nẫu ruột
khi họ ra đi và, tuy sự vắng mặt của họ chỉ trong vòng bốn chục ngày, mà
tôi tháy như mình phải sống không có các nàng hàng thế kỷ. Tôi
tự hứa với mình là sẽ không quên lời dặn dò quan trọng của họ là không
bao giờ được mở cái cánh cửa bằng vàng. Và dường như chỉ cần thế, tôi
được phép thoả mãn trí tò mò ở những cánh cửa kia. Tôi cầm lấy chiếc
chìa khoá thứ nhất đã được sắp xếp thứ tự. Tôi
mở cánh cửa thứ nhất và đi vào một khu vườn cây ăn quả mà tôi tưởng là
trong toàn vũ trụ không có một vườn quả nào so sánh nổi. Tôi cũng không
nghĩ là vườn thiên đàng mà đạo giáo chúng ta hứa hẹn với những tín đồ
sau khi chết liệu có hơn được thế này không. Tính đối xứng, vẻ sạch sẽ,
cách bố trí tuyệt vờl các cây trồng, sự phong phú và sự đa dạng của hàng
ngàn loại quả lạ, tươi tốt, đẹp đẽ tất cả làm tôi ngợp mắt. Tôi cũng
chẳng được phép bỏ qua để lưu ý với bà, thưa bà, là khu vườn tuyệt diệu
này được tưới tắm một cách rất khác thường. Những rãnh nước đứợc đào
khéo léo và cân đoí đem nước thật đầy đủ tới rễ các cây đang cần trổ lá
non và trổ hoa; những rãnh nước khác thì đưa lượng nước vừa đủ tới gốc
những cây đang bắt đầu ra quả; những rãnh khác thì đưa ít nước hơn tới
những gốc cây mà quả đã lớn; những rãnh khác chỉ tưới vừa đủ cho những
cây mà quả chỉ còn chờ hái xuống thôi. Và những trái cây này cũng to hơn
rất nhiều lần so với những quả thường có trong các khu vườn của chúng
ta. Còn những mương nước khác dẫn nước cho những cây mà quả đã chín thì
chỉ cần vừa đủ độ ẩm để giữ nguyên chất lượng cho quả chưa kịp hái xuống
mà thôi. Tôi ngắm nhìn không biết chán
một nơi có phong cảnh đẹp tuyệt vời như thế và không còn muốn rời đi nữa
nếu không thấy thoáng qua trong đầu là còn rất nhiều điều kỳ thú mà
mình chưa được nhìn thấy. Đi ra khỏi vườn, trong đầu óc đầy những điều
kỳ diệu, tôi đóng cửa thứ nhất lại và mở cánh cửa tiếp theo. Thay
cho một vườn cây ăn quả là một vườn trồng hoa, cũng chẳng kém phần đặc
biệt về loại vườn này. Vườn gồm có một khoảnh đất rộng được tướí nước
không phải theo cách như bên vườn cây ăn quả nhưng công phu hơn nhiều để
mỗi loại hoa nhận được nước vừa đủ cho sự sinh trưởng của mình. Hoa
hồng, hoa nhài, hoa tím, hoa thuỷ tiên, hoa dạ lài, hoa mẫu đơn, hoa uất
kim cương, hoa mao hương, hoa cẩm chướng, hoa huệ và vô vàn những thứ
hoa khác mà nếu ở nơi khác thì chỉ nở theo mùa, nhưng ở đây lại cùng lúc
nở rộ muôn hồng nghìn tía. Thật không ở đâu sảng khoái bằng ở khu vườn
mà không khí thấm đẫm hương thơm này. Tôi
mở cánh cửa thứ ba, đó là một nhà nuôi chim rất rộng. Nền nhà lát đá
hoa cẩm thạch đủ các màu sắc, vào loại đá quý nhất và hiếm nhất. Lồng
chim bằng gỗ đàn hương và trầm hương. Những chiếc lồng rộng lớn đó chứa
vô số những chim hoạ mi, chim kim oanh, chim bạch yến, chim sơa ca và
các loại chim khác có tiếng hót thật du dương mà tôi chưa từng thấy
người nào nói trong đời. Những chiếc bình đựng hạt và nước uống cho chim
đều được làm bằng đá hoa vân và mã não vào loại quí nhất. Nhà
nuôi chim này vô cùng sạch sẽ. Cứ nhìn vào qui mô của nó, tôi ước lượng
là phải có không dưới một trăm con ngườì thì mới bảo quản giữ gìn được
tinh tươm như vậy. Thế nhưng chẳng thấy có một bóng người nào xuất hiện,
cũng như trong các khu vườn mà tôi đã vào thăm không hề có một ngọn cỏ
dại, một sự thừa thãi nhỏ nào làm chướng mắt. Mặt
trời đã lặn, tôi trở ra, tai còn vang vang những tiếng hót của muôn
loài chim lúc này đang tìm chỡ đỗ thuận tiện nhất để nghỉ đêm. Tôi về
phòng riêng và định bụng là sẽ lần lượt mở những cánh cửa khác vào những
ngày sau trừ cánh cửa bằng vàng thứ một trăm. Ngày
hôm sau, tôi không quên đi đến mở cánh cửa thứ tư. Nếu những gì mà tôi
nhìn thấy ngày hôm trước đã gây cho tôi bao sự ngạc nhiên, thì những gì
tôi thấy luc này làm tôi mê mẩn. Tôi đặt chân trong một cái sân rộng,
quây xung quanh là một toà nhà với kiến trúc tuyết diệu mà tôi chẳng tả
ra đây làm gì để tránh sự dài dòng. Toà
nhà này có bốn chục cửa, mỗi cửa mở đi vào một kho tàng và trong số kho
tàng đó có những kho giá trị hơn cả sự giàu có của những vương quốc lớn
nhất. Kho thứ nhất chứa hàng núi ngọc trai những viên ngọc quí nhất
ngoài mọi sức tưởng tượng, đều to bằng những quả trứng chim bồ câu.
Trong kho thứ haí là những viên kim cương, ngọc hồng và ngọc tía. Trong
kho thứ ba gồm toàn ngọc bích. Kho thứ tư: vàng thỏi; kho thứ năm: tiền
đồng; kho thứ sáu: bạc nén. Hai kho tiếp theo: tiền các loại. Các kho
khác chứa ngọc tía, ngọc xanh, ngọc vàng, ngọc mắt mèo, ngọc lam, ngọc
vân và tất cả nhũng loại đá quí khác mà ta không biết, rồi mã não, vân
thạch và san hô: San hô ở đây có cả một kho đầy không chỉ là cành san hô
mà là những cây san hô nguyên vẹn. Đầy kinh ngạc và khâm phục, sau khi xem tất cả những của cải quý báu đó, tôi thất lên: -
Chà, tất cả các kho tàng của tất cả các quốc gia trên trái đất này nếu
được tập họp lại một nơi cũng không thể bằng được những của cải này.
Hạnh phúc của ta thật là vô bờ được sở hữu tất cả các kho báu này cùng
với các nàng công chúa vô cùng khả ái! Tôi
không ngừng lại, thưa bà, để kể chi tiết tất cả những vật quý hiếm mà
tôi thực mục sở thị những ngày tiếp sau. Chỉ nói để bà hay là tôi đã mất
không dưới ba mươi chín ngày để mở hết chín mươi chín cánh cửa, để nhìn
ngắm tất cả những gì bày ra trước mắt và không còn đủ lời để trầm trồ
khâm phục. Duy chỉ còn cánh cửa thứ một trăm thì tôi đã bị ngăn cấm...”.
Ánh sáng ban ngày chiếu rọi vào hậu cung
của hoàng đế Ấn Độ đã làm Scheherazade nín lặng. Những câu chuyện này
đã làm cho Schahriar vô cùng thích thú nên chẳng có ý nào không muốn
nghe tiếp vào hôm sau. Vị quốc vương này đứng lên trong ý nghĩ đó.
Dinarzade
cũng nôn nóng chẳng kém gì . Schahriar trong việc muốn biết có gì kỳ lạ
bên trong cánh cửa thứ một trăm đã được khoá kín nên thức giấc và cất
tiếng gọi hoàng hậu rất sớm: - Chi ơi, nếu chị không ngủ nũa, xin chị kể nốt câu chuyện kỳ lạ của người tu sĩ thử ba đi. - Anh ta đã kể tiếp như sau - Scheherazade nói. “Đang
là ngày thứ -bốn mươi, tính từ ngày các nàng công chúa yêu kiều duyên
dáng ra đi. Nếu ngày này tôi làm chủ được mình như cần pllải có thì tôi
đã là một người sung sướng nhất trongtất cả các người đàn ông trên thế
gian này chứ đâu phải là một người khổ sở nhất như bây giờ. Ngày mai các
nàng sẽ về tới nơi và niềm vui được thấy lại các nàng lẽ ra phải là cái
hãm có hĩệu quả tính tò mò của tôi mới phải, nhưng bởi sự yếu đuối mà
tôi không bao giờ ngừng hối hận, tôi đã đầu hàng dưới sự quyến rũ của
quỷ sứ nó không cho tôi được yên ổn chút nào cho đến khi tôi tự dấn thân
vào con đường khổ ải bắt buộc phải trải qua. Tôi
mở cái cánh cửa tai hoạ mà tôi đã hứa là sẽ không mở. Mới đợm chân bước
vào thì một mùi thơm khá dễ chịu nhưng không hợp với tạng người mình đã
làm tôi ngã và ngất xỉu. Nhưng rồi tôi tỉnh lại và đáng lẽ tuân theo
lời cảnh bảo đó mà đóng cửa lại, từ bỏ mãi mãi cái ý muốn thoả mãn trí
tò mò thì tôi lại bước vào. Chờ một lát cho cái mùi hương lạ đó nhạt dần
đi, tôl thấy trong người trở lại bình thường. Đây
là một nơi rộng rãi, lợp mái vòm và trên sàn rải rác những củ nghệ.
Nhiều cây đèn bằng vàng khối với những thỏi nến đang cháy nồng mùi trầm
và xạ hương. Ánh sáng này được bổ sung thêm bằng những chiếc đèn đầu, có
nhiều mùi hương khác nhau, bằng vàng và bạc. Trong
số rất nhiều đồ vật thu hút sự chú ý, tôi nhìn thấy một con ngựa màu
đen, đẹp và được chế tạo một cách rất tinh xảo ít có trên đời. Tôi đến
gần để ngắm thật kỹ: yên ngựa và đây cương ngựa cũng bằng vàng chạm trổ
công phu, máng ăn của nó đặt bên cạnh chứa lúa mạch và vừng một bên, bên
kia là nước hoa hồng. Tôi cầm đây cương kéo nó ra ngoài để ngắm cho rõ
hơn. Tôi nhảy lên lưng và thúc cho nó tiến lên. Vì thấy nó không nhúc
nhích, tôi dùng chiếc roi đã nhặt được trong cái chuồng ngựa tráng lệ
đó, quật vào mông nó một cái. Tức thì nó hí lên một tiếng khủng khiếp
rồi giương đôi cánh, mà tôi không nhận thấy, bay vút lên khoảng không.
Tôi chỉ còn cách giữ cương cho thật chặt và mặc dù sợ hãi hết hồn, tôi
vẫn không sao cả. Nó hạ thấp đần xuống và đỗ trên sân thượng một toà lâu
đài rồi không cho tôi kịp tụt xuống nó rung mình thật mạnh làm tôi ngã
bật ra phía sau, và chót đuôi nó chọc thẳng vào mắt bên phải của tôi. “Đó,
vì sao mà tôi thành chột mắt và tôi bỗng nhớ lại lời báo trước của mười
chàng trai. Con ngựa tiếp tục giương cánh bay lên mất hút. Tôi nhổm đậy
vô cùng đau xót vì tai hoạ mà tự mình đã chuốc lấy. Tôi bước đi. Trên
sân thượng, bàn tay bịt lấy con mắt vừa bị chọc thủng đau nhức nhối. Tôi
đi xuống và thấy mình đang ở trong một phòng khách quen thuộc vì nhận
thấy có mười chiếc bệ bày thành vòng tròn, một chiếc đặt chính giữa thấp
hơn một chút. Đây đúng là lâu đài nơi mà tôi đã bị con đại bàng quắp đi
trong bộ da cừu. Mười chàng trai không
có mặt trong phòng khách. Tôi ngồi chờ họ và chẳng mấy chốc họ đã đi vào
sau ông già. Họ không tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy tôi và
việc tôi bị chột mắt phải. Chúng tôi lấy
làm tiếc - Họ bảo tôi - là không thể chúc mừng sự trở về của ngài như
cách chúng tôi hằng mong ước. Nhưng chúng tôi đâu phải là những người
gây nên nỗi bất hạnh của ngài. - Tôi sẽ
rất sai lầm - Tôi đáp - nếu đổ tội cho các ngài về chuyện đó. Đó là tự
tôi chuốc lấy thôi. Tôi xin nhận tất cả lỗi lầm về mình. -
Nếu câu “đồng bệnh tương liên” là đúng - Họ lại nói - Thì gương của
chúng tôi đây cũng có thể góp một phần an ủi ngài. Tất cả những gì xảy
ra với ngài thì chúng tôi cũng đã từng nếm qua. Chúng tôi đã tận hưởng
tất cả những lạc thú có ở trên đời suốt một năm tròn, và có lẽ cũng vẫn
tiếp tục được hưởng hạnh phúc nếu chúng tôi không dại dột mở cánh cửa
bằng vàng trong khi các nàng công chúa đi vắng. Ngài cũng chẳng khôn
ngoan gì hơn chúng tôi và ngài cũng đã nhận được sự trừng phạt chẳng
khác gì chúng tôi. Chúng tôi rất muốn giữ ngài lại đây để cùng hảnh xác
như chúng tôi đang làm chưa biết bao giờ mới chấm dứt. Nhưng chúng tôi
cũng đã từng nói với ngài có nhiều lý do đã ngăn cấm không cho nhận ngài
vào nhóm được. Vậy thì ngài hãy đi đi, đi tởí tận triều đình Bagdad? ở
đó ngài sẽ thấy ai là người quyết định số phận của ngài. Họ chỉ vẽ cho tôi đường phải đi, và thế là tôi từ biệt họ. Dọc
đường di, tôi đã cạo râu tóc; lông mày và khoác áo tu sĩ khổ hạnh đạo
Hồi. Tôi đi rất lâu. Cuối cùng thì ngày hôm nay đã tới thành phố này vào
lúc chập tối. Tôi gặp ở cổng thành người tu si này, đồng đạo của tôi.
Cả ba người đều hết sức ngạc nhiên thấy cùng bị chột bên mắt phải. Nhưng
chúng tôi chưa có thời gian để hỏi han nhau về cái tai nạn chung đó.
Thưa bà, chúng tôi chỉ còn đủ thời gian để đến đây nài xin sự giúp đỡ và
đã được bà gia ân một cách thật hào hiệp. Tu sĩ khổ hạnh thứ ba đã kể xong chuyện mình, Zobéide bảo anh và cả hai người tu sĩ kia: - Các ngài hãy đi đi, cả ba ngài đều được tự do, muốn đi đâu tuỳ ý Nhưng một trong ba người nói: -
Thưa bà, xin miễn thứ cho chúng tôi vì tính tò mò, hãy để cho chúng tôi
được nghe chuyện của các ngài kia, họ còn chừa được nói. Người thiếu phụ bèn quay sang phía hoàng đế, tể tướng Giafar và Mesrour mà nàng chưa biết là những người như thế nào, bảo họ: - Bây giờ đến lượt các ngài kể chuyện mình cho tôi nghe. Hãy kể đi? Tể tướng Giafar vẫn là người phát ngôn, lải trả lờị Zobéide: . -
Thưa bà, để vâng theo lời bà, chúng tôi chỉ xin nhắc lại điều mà chúng
tôi đã nói trước khi vào quý xá. Chúng tôi ông nói tiếp - là những
thương nhân ở Mossoul đến Bagdad để thương lượng mua bán hàng. Hiện nay
hang hoá của chúng tôi còn để ở khọ một trang trại mà chúng tôi tạm trú.
Ngày hôm nay chúng tôi đã tiệc tùng với rất nhiều đồng nghiệp tại một
nhà buôn ở thành phố. Ông này sau khi chiêu đãi chúng tôi thật thịnh
soạn, đã cho gọi một đoàn vũ nữ và vũ công cùng với các ca sĩ và nhạc
công tôi giúp vui. Những tiếng ồn do chúng tôi gây ra đã làm cho lính
tuần tra kéo đến bắt giữ nhiều người. May mắn, chúng tôi đã trốn thoát,
nhưng vì đêm đã khuya, cổng trang trại đã đóng kín nên chúng tôi chẳng
biết về đâu. Tình cờ đi qua phố này, nghe thấy tiếng đàn hát vui chơi
trong nhà nên đánh bạo gõ cửa. Đó, thữa bà, chuyện của chúng tôi chỉ có
thế xin được thuật lại theo lệnh của bà. Zobéide
nghe xong dường như lưỡng lự chưa biết xử trí thế nào. Các tu sĩ nhận
thấy, xin nàng đối xử với ba nhà buôn ở Mossoul cũng có độ lượng như đối
với họ. - Thôi được - Nàng bảo họ - Ta
đồng ý. Ta muốn là mọi người đều được đối xử như nhau. Ta tha cho các
người nhưng với điều kiện là tất cả phải lập tức ra khỏi nhà này và đi
đâu thì tuỳ ý. Zobéide ra lệnh đó với
thái độ tỏ ra bắt mọi người phải tuân theo. Nhà vua, tể tướng, Messoul,
ba tu sĩ và anh khuân vác đi ra không một tiếng phàn nàn vì sự có mặt
của bảy tên nô lệ vũ trang khiến họ chẳng dám ho he. Khi đã đi ra ngoài
và cửa toà nhà đã đóng lại, hoàng đế vẫn chưa để lộ hình tích, bảo những
tu sĩ: - Các ngài là những người lạ và mới tôi thành phố này, bây giờ định đi đâu, trời thì chưa sáng hẳn? - Thưa ngài - Họ đáp - Đó là điều làm chúng tội lung túng. - Thế thì hãy theo chúng tôi - Nhà vua tiếp – Chúng tôi sẽ giúp các ngài thoát khỏi khó khăn. Rồi ông quay sang bảo tể tướng: -
Ngươi hãy đưa họ về nhà ngươi và sáng mai dẫn họ đến chỗ ta. Ta muốn
cho chép lại những câu chuyện của họ. Những chụyện đó đáng được ghi vào
biên niên triều đại ta. Tể tướng Giafar
dẫn theo mình ba tu sĩ. Anh khuân vác thì đi về nhà. Còn hoàng đế có
Mesrour hộ giá trở về hoàng cung. Ông đi nằm nhưng không sao nhắm được
mắt, đầu ỏc còn bị bao nhiêu những chuyện kỳ lạ mắt nhìn thấy, tai nghe
thấy chi phối. Ông băn khoăn nhất không rõ Zobéide là người như thế nào,
vì sao mà nàng lại hành hạ đã man hai con chó mực cái và vì sao mà
Amine lại có bộ ngực đầy sẹo. Trời sáng rõ rồi mà đầu óc ông vẫn bận rộn
vì những ý nghĩ đó. Ông đứng lên và đi ra thiết triều, ngồi lên ngai. Tể tướng tới sau một lát và chúc tụng nhà vua như thường lệ. Hoàng đế bảo: -
Tể tướng này, công việc cần phải giải quyết hôm nay không có gì cấp
bách lắm mà việc ba thiếu phụ và hai con chó mực cái còn gấp hơn nhiều.
Ta không thể nào ăn ngon ngủ yên khi chưa được biết rõ tất cả bao nhiêu
chuyện làm ta sửng sốt. Nhà ngươi hãy đi triệu tất cả các thiếu phụ ấy
và cả các tu sĩ khổ hạnh nữa tới đây cho ta. Đi đi, và nhớ là ta nóng
lòng chờ đợi nhà ngươi trở về đấy. Tể
tướng biết rất rõ tính tình sôi nổi và nôn nóng của chủ mình nên vội vã
chấp hành. Ông tới nhà các thiếu phụ, thẳng thắn trình bày với họ lệnh
của hoàng đế triệu họ mà không nói gì tới chuyện gì đã xảy ra tại nhà họ
đêm hôm trước. Các thiếu phụ lấy mạng
che mặt và đi cùng với tể tướng, ông này tạt qua nhà mình và dẫn luôn cả
ba tu sĩ cùng đi. Các tu sĩ đã có thời gian để biết rõ là mình vô tình
đã được tiếp xúc với hoàng đế. Tể tướng
dẫn cả bọn vào hoàng cung coi như đã làm tròn nhiệm vụ. Hoàng đế rất hài
lòng về sự mau lẹ này. Để giữ lịch sự trước triều thần có mặt lúc đó,
nhà vua đã cho các thiếu phụ đứng sau cửa căn phòng dẫn tới hậu cung và
giữ ba tu sĩ lại bên cạnh mình. Vẻ cung kính của ba chàng tỏ ra là họ đã
biết mình đang đứng trước mặt ai. Sau khi các thiếu phụ đã yên vị, hoàng đế ngoảnh về phía họ bảo: -
Thưa các bà, nói để các bà biết là tôi đã cải trang thành thương nhân
và được vào nhà các bà tối hôm đó. Chắc các bà lo sợ, cho là vì có điều
gì xúc phạm đến ta mà đã được gọi tới đây để bị xử phạt. Nhưng xin cứ
yên tâm. Hãy tin rằng ta đã quên tất cả những gì thuộc về quá khứ và còn
rất hài lòng về cách xử sự của các bà. Ta ước sao tất cả phụ nữ của
thành Bagdad này cũng đều khôn ngoan lịch thiệp như các bà mà ta đã được
chứng kiến. Ta luôn luôn nhớ tới thái độ ôn hoà của các bà trước hành
vi thiếu lịch sự của chúng ta. Lúc đó ta là thương nhân ở Mossoul, nhưng
bây giờ đây ta là Haroun Alraschid, hoàng đế thứ năm của triều đại
Abbas quang vinh, đang trị vì thay thế cho đấng tiên tri vĩ đại của
chúng ta. Ta triệu các bà tới đây, đơn thuần chỉ muốn biết các bà là ai
và cũng để hỏi xem vì sao mà một trong các bà, sau khi hành hạ hai con
chó mực cái, lại khóc lóc cùng với chúng. Ta cũng lại còn muốn biết vì
sao một bà lại có bộ ngực đầy vết sẹo. Mặc
dù hoàng đế nói những lời trên đây rất rõ rang rành mạch và các thiếu
phụ đều nghe chăm chú nhưng tế tướng Giafar, với vẻ thật trịnh trọng vẫn
nhắc lại các câu trên cho các bà nghe...” -
Nhưng, tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Trời sáng mất rồi. Nếu
hoàng thượng còn muốn nghe tiếp thì Người sẽ lại phải cho thiếp sống đến
ngày mai thôi. Hoàng đế gật đầu đồng ý, chắc là Scheherazade sẽ kể cho
nghe. chuyện nàng Zobéide mà ông chẳng phải là không muốn nghe.
-
Chị thân yêu của em - Dinarzade kêu chị lúc sắp tàn đêm - Nếu chị không
còn ngủ nữa, thì xin chị nói về Zobéide vì em chắc là bà thiếu phụ này
thể nào cũng kể chuyện của mình với nhà vua. -
Đúng vậy em ạ - Scheherazade đáp - Khi nhà vua đã nói cho bà ta yên tâm
như vừa rồi thì người thiếu phụ này cũng đáp ứng yêu cầu của nhà vua và
trình bày như sau:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét