30 thg 7, 2015

Trường Tương tư

                                           LƯƠNG Ý NƯƠNG
                              ( 梁 意 娘)


                Không rõ năm sinh , năm mất. Theo giai thoại Ý Nương thì Lương Ý Nương là con gái của Lương Tiêu Hồ, hay còn gọi là Lương Công. Sống vào cuối nhà Đường, thời Hậu Chu (907-955), ở  vùng sông TiêuTương,thuộc huyện Ninh Lăng, tỉnh Hồ Nam.Nổi tiếng về sắc đẹp và hay chữ. Tuy nhiên đây chỉ là giai thoại.


            長 相 思                 Trường tương tư

落  花  落  葉  落  紛  紛

Lạc  hoa  lạc  diệp  lạc phân phân, 
盡  日  思  君  不  見  君。
Tận  nhật tư  quân  bất  kiến quân. 

 腸  欲  斷  兮  腸  欲  斷,
 Trường dục đoạn hề trường dục đoạn, 
淚   珠  痕  上  更  添  痕。
 Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân. 

我   有  一  寸  心, 

 Ngã hữu nhất thốn tâm, 
無   人  共  我  說。
Vô nhân cộng ngã thuyết. 
願   風  吹  散  雲,
 Nguyện phong xuy tán vân, 
訴   與  天  邊  月。
Tố dữ thiên biên nguyệt. 
   
攜   琴  上  高  樓,
 Huề cầm thượng cao lâu, 
樓  高  月  花  滿。 
 Lâu cao nguyệt hoa mãn. 
相  思  未  必  終,
Tương tư vị tất chung, 
淚  滴  琴  玄  斷。

Lệ trích cầm huyền đoạn. 


人  道  湘  江  深,
Nhân đạo Tương giang thâm, 
未  抵  相  思  畔。
Vị      để   tương  tư   bạn.  
江  深  終  有  底,
Giang thâm chung hữu để, 
相  思  無  邊   岸。
Tương tư vô biên ngạn. 
   
我  在  湘  江  頭,

Ngã tại Tương giang đầu, 
君  在  湘  江  尾。
Quân tại Tương giang vĩ.
相  思  不  相  見,

Tương tư bất tương kiến, 
同  飲  湘  江  水。 
Đồng ẩm Tương giang thuỷ. 
   
夢  魂  飛  不  到,
Mộng hồn phi bất đáo, 
所  欠  唯  一  死。 
Sở khiếm duy nhất tử. 
入 我 相 思 門,
Nhập ngã tương tư môn, 
知 我 相 思 苦。 Tri ngã tương tư khổ. 
   
長 相 思 兮 長 相 思,

Trường tương tư hề, trường tương tư, 
長 相 思 兮 無 盡 極。
Trường tương tư hề, vô tận cực.  
早 知 如 此 罫 人 心,Tảo tri như thử quải nhân tâm,  
迴 不 當 初 莫 相 識。Hồi bất đương sơ mạc tương thức.
*Dịch nghĩa:

               TƯƠNG TƯ ĐẰNG ĐẴNG.

Hoa rơi, lá rụng  đầy khắp.
Ngày ngày mãi nhớ chàng mà không gặp được chàng.
Ruột muốn đứt,  chao  ôi,  ruột muốn đứt !
Lệ ngọc tuôn trào từng ngấn, lại càng thêm từng ngấn.


Thiếp có một tấc lòng.
Không có người bày tỏ
Muốn gió thổi mây tan đi.
Để nói cùng bóng trăng bên trời.


Mang đàn cầm lên lầu cao.
Lầu cao trăng hoa tràn ngập
Khúc tương tư chưa kết thúc
Nước mắt rơi làm đàn bị đứt dây.


Người bảo sông Tương sâu
Chưa bằng lòng nhớ nhau
Sông sâu còn có đáy
Lòng nhớ nhau không có cõi bờ.


Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không gặp
Cùng uống nước sông Tương.


Mộng hồn bay không tới
Duy chỉ còn thiếu một cái chết mà thôi.
Có vào cửa tương tư của thiếp.
Mới biết nỗi khổ của lòng tương tư.


Tương tư đằng đẵng, ôi, tương tư đằng đẵng !
Tương tư cứ kéo dài  triền miên vô tận
Nếu sớm biết (yêu thương để) lòng  người trắc trở như thế này
Thà buổi đầu đừng quen biết nhau.
                  *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch.

 


·       *   Dịch thơ:

     TƯƠNG TƯ ĐẰNG ĐẴNG.

 
Lá rụng, hoa rơi đầy khắp chốn.
Nhớ chàng, ngày mãi không gặp nhau.
Ruột như muốn đứt, thêm đày đoạn.
Nước mắt tuôn trào, ngấn ngấn đau.

Thiếp có một tấc lòng.

Không cùng ai bày tỏ.
Muốn gió thổi mây tan.
Nói cùng trăng bên đó.

Mang đàn lên lầu cao.

Bóng trăng hoa tràn ngập.
Khúc nhớ chưa trọn bài.
Lệ rơi dây đàn đứt.

Người bảo sông Tương sâu

Chưa bằng lòng nhớ nhau.
Sông sâu còn có đáy
Nhớ nhau không bến bờ.

Chàng ở đầu sông Tương.

Thiếp ở cuối sông Tương.
Nhớ nhau mà không  gặp.
Cùng uống nước sông Tương !

Mộng hồn bay không tới.

Thiếu chết để gặp nhau.
Có vào qua cửa nhớ
Mới rõ lòng khổ đau.

Tương tư đằng đẵng, thêm đằng đẵng.

Nỗi nhớ dài hơn cả biển trời.
Sớm biết yêu thương là khổ hận.
Thà xưa đừng gặp gỡ người ơi!
                *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
  *Ghi chú:
   - Giai thoại bài thơ:  Như đã nêu ở trên, sách Tình sử của Trung Quốc, có ghi sự tích như sau: Vào đời nhà Hậu Chu (907- 955), ở vùng sông Tiêu Tương tỉnh Hồ Nam, có người con gái tên là Lương Ý Nương (còn gọi là Lương Y) tài sắc vẹn toàn, nàng là con gái của LươngTiêu Hồ (梁瀟湖 )(còn gọi là Lương Công). Nàng đã gặp một hàn sĩ phong lưu tuấn tú đến ở trọ tên là Lý Sinh (李生). Hai người để ý yêu nhau. Cha Lý Sinh biết nên nổi giận đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương nhớ nhung đau khổ nên mới viết bài “Trường tương tư” gửi cho Lý Sinh. Xem thơ, chàng cảm động, bỏ qua mọi sự  sỉ nhục, trở lại nhà nàng và tìm mọi cách để thuyết phục cha nàng xin cho họ được làm bạn đời với nhau. Trước cảnh ốm đau tiều tụy và lời lẽ thống thiết của con trong bài thơ, cuối cùng người cha đã chấp nhận và cho họ được toại nguyện.
- Tương giang: Sông Tương. Tên một con sông ở Trung Quốc. Sông phát nguyên từ núi Hải Dương, chảy ngang Hồ Nam rồi đổ vào hồ Động Đình. Có một nhánh của ngọn sông Tiêu đổ vào sông Tương ở thị trấn Linh Lăng (tỉnh Hồ Nam) nên dân gian thường nói gộp lại là sông Tiêu Tương. Do sự tích của nàng Lương Y và Lý Sinh mà từ sông Tương hoặc sông Tiêu Tương là lời nói ẩn dụ để chỉ về nỗi tương tư của những người yêu nhau bị ngăn cách mà người đời sau hay dùng cả ở Trung Quốc cũng như Việt Nam. Ví dụ:
   - Giác lai lệ trích Tương giang thủy (Tỉnh dậy nước mắt nhỏ xuống dòng sông Tương)
                                                   .Hữu sở tư  -  Lư Đồng (Trung Quốc)
   - Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.
          .Truyện Kiều  -  Nguyễn Du (Việt Nam)
      -Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại.
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang...
               . Chinh phụ ngâm -  Đoàn Thị Điểm (Việt Nam)
   +  Người đời sau trich hai khổ thơ có 8 câu của bài “Trường tương tư” để tách thành một bài thơ riêng và lấy tên đầu đề là “Tương giang”. Đây là hai khổ thơ hay nhất của bài, được sớm lưu hành ở Việt nam từ trước tới giờ. Về bản dịch tiếng Việt, chúng tôi chưa rõ tên tác giả và chỉ chép lại theo trí nhớ. Vì đã quá lâu  nên có thể  có một vài từ không đúng y lời như bài đã nhớ từ thuở trước.

      
  TƯƠNG GIANG
 
人  道    江  深,

 Nhân đạo Tương giang thâm, 
未  抵  相  思  畔。
Vị để tương tư bạn.  
江  深  終  有  底
Giang thâm chung hữu để, 
相  思  無  邊   岸。
Tương tư vô biên ngạn. 

君  在  湘  江  頭,
 Quân tại Tương giang đầu, 
妾  在  湘  江  尾。
Thiếp tại Tương giang vĩ. 
相  思  不  相  見
 Tương tư bất tương kiến, 
同  飲  湘  江  水。 
Đồng ẩm Tương giang thuỷ. 


* Dịch thơ:

      SÔNG TƯƠNG
Sông Tương người bảo sâu
Chưa bằng lòng mong nhớ
Sông sâu còn có đáy
Lòng nhớ lại không bờ.
Chàng ở đầu sông Tương.
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy
Cùng uống nước sông Tương.

     (Chưa rõ tên tác giả dịch)
 *Thật ra trong hai khổ thơ trên, khổ thơ thứ hai vốn là bài nhạc phủ dân gian đã lưu hành từ trước, Lương Ý Nương đã mượn đưa vào bài thơ của mình.
·       *   Giới thiệu bản dịch khác:

   Tương tư hoài...
                   Dài tương tư 


Hoa hoa lá lá rụng tơi bời 
Lòng nhớ người sao chẳng thấy người 
Ruột muốn đứt thêm, thêm đứt ruột 
Châu rơi thành ngấn lại châu rơi 

Ta có một tấc lòng 
Không có ai mà hỏi 
Muốn nhờ gió đuổi mây 
Để được cùng trăng nói 

Ôm đàn lên lầu cao 
Lầu cao trăng giãi khắp 
Tương tư khúc chẳng thành 
Lệ nhỏ dây đàn đứt 

Người bảo sông Tương sâu 
Tương tư sâu gấp bội 
Sông sâu còn có đáy 
Tương tư chẳng bến bờ 

Chàng ở đầu sông Tương 
Thiếp ở cuối sông Tương 
Nhớ nhau không gặp mặt 
Cùng uống nước sông Tương 

Hồn mộng bay không đến 
Còn một chết thôi mà 
Bước vào cửa tương tư 
Mới biết tương tư khổ 

Tương tư hoài, dài tương tư 
Tương tư dài, dài khôn xiết 
Sớm biết nỗi đau lòng 
Xưa đừng cùng quen biết.

        *Người dịch: Vũ Ngọc Khánh








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét